Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 10: Viết Bài Văn Về Một Sự Lựa Chọn Có Ý Nghĩa Mà Bạn Đã Trải Qua Dàn Ý + 2 Bài Văn Hay Lớp 10 được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Konu.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
I. Mở bài
– Dẫn dắt vào đề: Cuộc đời là những chuyến phiêu lưu trong đó con người là những người du hành không biết mệt mỏi. Vậy để trở thành những người du hành thông thái có vốn tri thức và hiểu biết phong phú thì sao chúng ta cần không ngừng cố gắng vươn lên, thành quả của mọi nỗ lực là những trải nghiệm đáng quý nhất.
II. Thân bài
1. Giải thích
– Trải nghiệm là tự mình trải qua để có được hiểu biết, kinh nghiệm; tích lũy được nhiều kiến thức và vốn sống.
– Trải nghiệm có vai trò đặc biệt quan trọng đối với cuộc sống của mỗi con người vì:
Trải nghiệm đem lại hiểu biết và kinh nghiệm thực tế; giúp chúng ta mau chóng trưởng thành về cách nghĩ, cách sống, bồi đắp tình cảm, tâm hồn, giúp mỗi người gắn bó và góp phần cống hiến cho cuộc đời, cho đất nước.
Trải nghiệm giúp mỗi người khám phá chính mình để có những lựa chọn đúng đắn và sáng suốt cho tương lai.
Trải nghiệm giúp mỗi người dấn thân, thử nghiệm để sáng tạo; biết cách vượt qua những trở ngại khó khăn, tôi luyện bản lĩnh, ý chí để thành công.
Thiếu trải nghiệm cuộc sống của mỗi người sẽ nghèo nàn, thụ động, nhàm chán, vô ích; không cảm nhận được sự thú vị của cuộc sống.
Lấy dẫn chứng để chứng minh…
– Những người trẻ cần trải nghiệm để khám phá cuộc sống và chính mình. Cần tạo điều kiện để tuổi trẻ được trải nghiệm cuộc sống tốt đẹp và hữu ích.
– Thực tế, nhiều bạn trẻ chưa coi trọng hoạt động trải nghiệm để bản thân trưởng thành. Đó là những người chỉ chú ý vào việc học tập, thi cử mà chưa chủ động, tích cực trải nghiệm, rèn kỹ năng sống. Một số khác lại đắm chìm trong thế giới ảo. Đặc biệt hơn nữa, có những bạn trẻ lại lao vào thử nghiệm những điều có hại, sa vào tệ nạn…
3. Bài học nhận thức và hành động
– Cần nhận thức được vai trò quan trọng và cần thiết của trải nghiệm, biết trải nghiệm tích cực để giúp bản thân trưởng thành, vững vàng và sống đẹp hơn.
III. Kết bài
– Trải nghiệm có ý nghĩa to lớn đối với sự trưởng thành và phát triển của con người.
Trong cuộc sống, con người luôn phải đứng trước những lựa chọn và đưa ra quyết định. Tôi cũng vậy, tôi có một lựa chọn ý nghĩa mà tôi sẽ ghi nhớ cả đời này. Đó là lựa chọn đi học đội tuyển học sinh giỏi Quốc gia môn Ngữ văn.
Trong lớp, tôi thuộc hàng những học sinh giỏi và có tình yêu với môn Văn. Chính điều đó đã giúp tôi được lọt vào vòng trong sau kì thi chọn đội tuyển học sinh giỏi Quốc gia. Thế nhưng, lúc này tôi phải đứng trước hai sự lựa chọn: Một là, tiếp tục học ở lớp, học kiến thức chính khóa để chuẩn bị thi đại học. Hai là, chọn học đội tuyển học sinh giỏi Quốc gia. Tôi sẽ phải chấp nhận việc bù lại kiến thức sau thời gian ôn luyện đội tuyển. Nghĩa là tôi phải học gấp đôi các bạn bình thường, và việc có đạt giải khi đi thi hay không cũng là một áp lực khủng khiếp.
Tôi đã nghĩ rất nhiều, đã hỏi bạn bè và bố mẹ. Bạn tôi đã khuyên tôi hãy lắng nghe trái tim của mình. Trái tim tôi – trái tim với tình yêu môn Văn đã mách bảo tôi đi học đội tuyển. Thế là ba tháng học đội tuyển chính là quãng thời gian đẹp đẽ nhất trong thời học sinh của tôi. Nhờ học đội tuyển Quốc gia môn Văn, tôi đã hiểu thêm nhiều vấn đề lí luận văn học, tôi đã biết cách viết những bài nghị luận thể hiện được quan điểm cá nhân, tôi đã biết để ý đến xã hội, tôi có được những cảm nhận vi tế về các chi tiết trong tác phẩm văn học.
Cuối cùng, kết quả thi học sinh giỏi đã không như tôi mong muốn, và sau đó tôi đã phải ôn luyện, đuổi kịp kiến thức với các bạn trên lớp. Đó lại là một lần áp lực nữa của tôi. Nhưng cho đến bây giờ, tôi vẫn cảm thấy rất vui và biết ơn vì những tháng ngày miệt mài đó. Chính lựa chọn học đội tuyển đã cho tôi có được những kiến thức, kĩ năng mà tôi hằng mong muốn. Chính lựa chọn học đội tuyển đã cho tôi biết khi có áp lực, tôi đã mài giũa bản thân mình, đã vượt qua các kì thi như một kì tích. Người ta nói lửa thử vàng, gian nan thử sức. Tôi không dám nhận mình là một thứ vàng quý hiếm, nhưng tôi biết rằng, bản thân đã được tôi luyện qua những giây phút gắt gao của năm tháng học sinh trên ghế nhà trường.
Steve Jobs đã từng nói: “Hãy cứ khát khao, hãy cứ dại khờ!”. Những năm tháng thời học sinh THPT của tôi chính là câu nói đó. Tôi đã khát khao, tôi đã dại khờ. Tôi đã để mình được đi theo tiếng gọi của tình yêu, bất chấp những nỗi lo sợ. Quả thực, tôi thấy mình thật may mắn vì đã chọn nghe theo trái tim. Đó là lựa chọn ý nghĩa nhất đến giờ mà tôi có. Để thay lời kết, tôi chỉ mong khi đứng trước những lựa chọn, bạn sẽ chọn được lựa chọn ý nghĩa cho bản thân mình.
Trong cuộc sống, chúng ta luôn phải đứng trước những sự lựa chọn với niềm băn khoăn, trăn trở và cả sự hối tiếc. Chúng ta không biết rằng đâu là con đường lựa chọn đúng đắn cũng không biết rằng con đường đó sẽ đưa chúng ta đến nơi nào. Nhưng dù lựa chọn bất kỳ điều gì chúng ta hãy cứ tin vào bản thân mình. Với tôi, là một người khá thiếu chính kiến, tôi luôn băn khoăn giữa rất nhiều lựa chọn của bản thân. Cho đến bây giờ, tôi vẫn nhớ về ngày lựa chọn điền nguyện vọng thi đại học của bản thân.
Sau khi tham khảo ý kiến từ mọi người, tôi đã suy nghĩ rất nhiều. Tôi suy nghĩ rằng bản thân đang cần gì, bản thân muốn làm gì, và bản thân có thể làm công việc đó hay không. Tôi nhận ra với khả năng của mình, vào học sư phạm là môi trường phù hợp nhất. Tuy nhiên để trở thành một giáo viên dạy văn tôi cần phải trau dồi thêm rất nhiều yếu tố. Hơn nữa, điểm chuẩn vào trường đại học Sư phạm Hà Nội rất cao nhưng tỉ lệ ra trường có công việc ổn định lại rất thấp. Điều đó khiến tôi lo lắng, liệu rằng mình có hối hận khi đưa ra quyết định này?
Cho đến một ngày khi tôi đang lang thang, bơ vơ giữa vô vàn những lựa chọn chưa thể quyết định, tôi vô tình xem được một đoạn video của chương trình Việc tử tế với tiêu đề: Việc tử tế “Ngày mai cho em”: Sống để gieo mầm yêu thương. Tôi muốn chia sẻ đến các bạn thông điệp ý nghĩa này.
Văn Mẫu Lớp 10: Phân Tích Truyện Tấm Cám (Dàn Ý + 14 Mẫu) Những Bài Văn Mẫu Lớp 10 Hay Nhất
I. Mở bài
– Giới thiệu khái quát về đặc trưng thể loại truyện cổ tích.
– Giới thiệu về truyện cổ tích “Tấm Cám”: Thuộc thể loại cổ tích thần kỳ kể về cuộc đời của Tấm thông qua đó thể hiện ước mơ cháy bỏng về khát vọng hạnh phúc và công lí của nhân dân.
II. Thân bài
1. Diễn biến mâu thuẫn xung đột giữa Tấm và mẹ con Cám
– Chặng 1: Con đường đến với hạnh phúc của Tấm.
Cám lừa Tấm, trút hết giỏ tép của Tấm vào giỏ của mình để cướp phần thưởng. Tấm ôm mặt khóc, bụt hiện lên cho Tấm một con cá bống.
Mẹ con Cám lừa Tấm đi chăn trâu ở cánh đồng xa để giết thịt cá bống. Tấm về không thấy cá bóng liền ngồi khóc. Bụt hiện lên bảo Tấm cho xương cá đựng vào bốn chiếc lọ chôn ở bốn chân giường.
Dì ghẻ trộn thóc lẫn gạo, bắt Tấm nhặt không cho đi trẩy hội. Tấm khóc. Bụt hiện lên, sai một đàn chim sẻ xuống nhặt giúp.
Tấm không có quần áo đẹp mặc đi hội. Tấm tủi thân khóc. Bụt hiện lên cho Tấm quần áo, khăn, giày, xe ngựa. Tấm đến gặp vua, đánh rơi chiếc hài và may mắn trở thành hoàng hậu.
– Chặng 2: Con đường đấu tranh giành lấy hạnh phúc của Tấm.
Tấm về giỗ cha, bị mẹ con Cám dụ trèo lên cây cau, sau đó chặt gốc cau. Tấm ngã chết, Cám được đưa vào cung thay thế.
Tấm chết hóa thành chim vàng anh, báo hiệu sự có mặt trên đời. Mẹ con Cám giết thịt chim
Tấm hóa thành cây xoan đào, tỏ bóng mát cho nhà vua. Mẹ con Cám chặt cây, đốt làm khung cửi.
Tấm hóa thành con ác trên khung cửi, trực tiếp tuyên chiến với kẻ thù . Mẹ con Cám đốt khung cửi.
Tấm hóa thành quả thị, ngày ngày chui ra quét dọn, nấu cơm cho bà hàng nước, sau đó gặp lại nhà vua và trở về làm hoàng hậu. Mẹ con Cám ngỡ ngàng và chết một cách thảm khốc
2. Bản chất của mâu thuẫn, xung đột
– Xuất phát từ mâu thuẫn trong gia đình phụ hệ: Dì ghẻ – con chồng.
Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ.
Tấm và dì ghẻ là con chồng dì ghẻ.
– Phản ánh mâu thuẫn xã hội giữa cái thiện và cái ác.
Tấm đại diện cho các nhân vật ở tuyến thiện: Hiền lành, nhu mì, đau khổ, tội nghiệp luôn nhận được sự giúp đỡ, dám đứng lên chống lại cái ác.
Mẹ con Cám lười biếng, nhẫn tâm, độc ác.
3. Hành động trả thù của Tấm
– Tấm trở về cung, làm hoàng hậu và trẻ đẹp hơn trước.
– Cám ngỡ ngàng, khát khao được đẹp như chị. Tấm bày cách cho Cám xuống hố, dội nước sôi cho trắng đẹp rồi chết.
– Mẹ Cám ăn lọ mắm làm từ thịt con gái, kinh khiếp lăn đùng ra chết.
4. Đặc sắc nghệ thuật
– Xây dựng những mâu thuẫn, xung đột theo hướng tăng tiến.
– Xây dựng hai tuyến nhân vật thiện ác rõ rệt.
– Sử dụng những mô típ truyền thống: mô típ vật duy nhất còn sót lại (con cá, chiếc giày, quả thị, trầu têm cánh phương), mô típ hóa thân…
– Sử dụng các yếu tố thần kì: nhân vật thần kì (Bụt), vật thần kì (Xương cá bống, bầy chim sẻ), những lần hóa thân của Tấm.
III. Kết bài
– Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện cổ tích “Tấm Cám”.
– Mở rộng: Kiểu truyện Tấm Cám có mặt ở hầu hết các truyện kể dân gian ở các nước như “Cô bé Lọ lem”, “Cô Tro bếp”. Hình tượng cô Tấm và cốt truyện. Tấm Cám cũng xuất hiện nhiều ở các loại hình nghệ thuật khác như truyện thơ, trèo. Từ đó cho thấy sự hấp dẫn và phổ biến của kiểu truyện Tấm Cám.
Dù là truyện loài vật, thần kì hay thế tục thì truyện cổ vẫn mang yếu tố chính là xuất hiện và phản ánh những sự việc xảy ra trong xã hội loài người. Truyện cổ Tấm – Cám thuộc loại truyện thần kỳ kể về đời cô Tấm, một cô gái bất hạnh phải chịu nhiều nỗi đắng cay, chua xót nhưng được tiên, bụt… phò trợ nên đã vượt qua và đạt được hạnh phúc trong đời. Truyện tuy có những chi tiết thần kì giữ vai trò mở nút thắt trong từng tình huống, nhưng trên tất cả là thể hiện ước mơ cháy bỏng của nhân dân lao động về hạnh phúc gia đình, về lẽ công bằng xã hội, về phẩm chất và năng lực tuyệt vời của con người.
Đoạn đầu truyện, dân gian giới thiệu các nhân vật chính và hoàn cảnh sống của họ. Tấm là con vợ cả, Cám là con vợ lẽ. Mẹ Tấm đã chết từ hồi Tấm còn bé. Sau đó mấy năm thì cha Tấm cũng chết. Tấm ở với dì ghẻ là mẹ của Cám.
Lời giới thiệu không chỉ gọn, rõ mà còn gợi mở số phận đắng cay của nhân vật Tấm với người đọc. Đúng vậy, tục ngữ – ca dao cũng đã từng nhắc nhở:
Cám thì được mẹ nuông chiều, được ăn trắng mặc trơn. Ngược lại thì Tấm bị bắt làm đổ mồ hôi, sôi nước mắt mà không hết việc.
Sau đoạn văn giới thiệu, tình huống thứ nhất xuất hiện do mụ dì ghẻ bày ra. Mụ mang ra hai cái giỏ đưa cho hai chị em đi bắt tôm bắt tép, và ra điều kiện rằng: “Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một cái yếm đỏ!” Một điều kiện, một lời hứa khá là công bằng, chẳng bắt ép con ghẻ, cũng chẳng thiên vị con ruột. Đứa nào nhiều hơn thì được thưởng. Nhưng ai biết được mụ đã nói gì với Cám, con gái cưng của mụ? Trong cuộc sống hàng ngày, mụ đã quá hiểu con gái mình và cả Tấm. Chỉ một buổi thôi, Tấm đã bắt được một giỏ đầy. Thấy vậy, Cám mới bảo: “Chị Tấm ơi, chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về dì mắng”. Về hình thức thì câu nói có vần có điệu khiến lời kể hấp dẫn hơn. Về nội dung thoạt nghe thì hữu lý, nhưng nghĩ lại cho cùng thì ẩn chứa sau lời nhắc nhở có chút đe dọa kia là một mưu toan. Tin là thật nên Tấm làm theo, còn Cám thì thừa dịp đó trút hết tôm tép vào giỏ của mình rồi ba chân bốn cẳng chạy về nhà. Tất cả những chi tiết tạo nên tình huống trên giúp người đọc thấy rõ đặc tính của mỗi nhân vật, ai là người chân thật, ai là kẻ dối trá và lừa đảo.
Sau khi lên bờ, Tấm nhìn vào giỏ thì không thấy tôm tép đâu. Trước hoàn cảnh đó, cô Tấm chỉ còn biết ngồi khóc. Thế là Bụt xuất hiện. Hiện thực (Tấm) và siêu nhiên thần kỳ (Bụt) giao hóa để tạo nên tình huống mới. Nếu không có Bụt xuất hiện thì hướng phát triển của truyện theo chiều hiện thực (chẳng hạn Tấm về nhà, bị mụ dì ghẻ đánh mắng và đuổi đi…). Bụt xuất hiện đã chỉ cho Tấm còn một con cá bống trong giỏ và bảo Tấm đem con cá bống về nuôi. Từ đó, bống cũng trở thành con cá thần kỳ nghe được tiếng người gọi theo lời Bụt dặn để trồi lên:
Thế giới siêu nhiên thần kỳ sống giao hòa với con người bắt đầu từ tình huống này. Tấm làm theo lời Bụt nuôi cá bống ở giếng trong vườn nhà, mỗi ngày gặp nhau bằng câu Bụt dặn. Với người tin thế giới tâm linh thì đó là câu thần chú. Với người bình thường thì đó là câu “ám hiệu” để nhận ra người cùng phe dù không biết mặt mũi của nhau. Nhờ vậy mà Tấm với bông sống và gặp gỡ nhau trong một thời gian dài.
Nhưng sự việc không qua được cặp mắt soi mói, đầu óc nghi ngờ của mụ dì ghẻ. Mụ sai Cám đi rình, học thuộc mấy câu trên, rồi thực hiện âm mưu đen tối của mình. Bày tính bắt Tấm chăn trâu, nhưng “phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu”. Tấm làm theo. Tới chiều về, Tấm mang cơm ra cho bống như mọi khi. Gọi mãi mà không thấy bống, cuối cùng chỉ thấy một cục máu nổi lên mặt nước. Chi tiết kì ảo ấy khiến người đọc có cảm giác rờn rợn. Tính độc ác tăng dần trong con người của hai mẹ con mụ dì ghẻ. Cái chết xuất hiện, dù là cái chết của một con vật. Mà cá bống, trong trường hợp này lại là một phần của lực lượng siêu nhiên bởi có sự dẫn dắt, chỉ bảo của Bụt, rõ hơn là tình thương, là sự giúp đỡ của Bụt đối với Tấm – cô gái mồ côi, bất hạnh. Bởi vậy, khi nghe Tấm vừa khóc vừa trình bày sự việc, Bụt đã cho biết là bống đã bị người ta ăn thịt và chi cho cách sử dụng xương của bống. Tấm lục lọi tìm xương của bông khắp vườn, nhưng không thấy. Thấy vậy, một con gà bảo Tấm: “Cục ta cục tác! Cho ta nắm thóc, ta bới xương cho”. Tấm làm theo yêu cầu của gà, rồi theo gà vào bếp. Lấy được xương bống, Tấm cho vào bốn cái lọ và chôn dưới bốn chân giường theo lời Bụt dặn.
Truyện được kể tiếp về những ngày hội ở kinh đô. Không muốn Tấm cùng đi, mụ dì ghẻ trộn hai đấu thóc và gạo vào nhau, bảo Tấm lựa hai loại để riêng ra rồi hãy đi. Bụt lại giúp Tấm hai câu thần chú gọi chim sẻ:
Không có quần áo đẹp đi dự hội, Bụt bảo Tấm đào bôn cái lọ đã chôn dưới bốn chân giường lên. Xương của bống đã hóa thành lễ phục, đôi giày thêu, con ngựa và yên ngựa. Từ phương tiện để chưng diện, di chuyển ấy Tấm nhanh chóng đi dự lễ hội. Ngựa phóng qua chỗ lội, Tấm bị rơi mất một chiếc giày. Hai chú voi dẫn đầu đoàn xa giá của vua đến dự hội tới đây đều kêu rống lên, không chịu đi tiếp. Nhà vua phải sai quân hầu tìm hiểu thì vớt được chiếc giày. Khi vua nhìn thấy chiếc giày và thầm bảo: “Chà, một chiếc giày thật xinh! Người đi giày này hẳn phải là một trang tuyệt sắc”. Từ chiếc giày ở đây trở lại đầu truyện, những chi tiết tạo nên những tình huống giúp Tấm vượt qua thử thách đều do Bụt, và bống là nhân vật liên can. Chính nhờ chiếc giày được biến hóa từ xương của bông mà Tấm được vua sai đoàn thị nữ rước nàng vào cung. Dù trước đó khi gặp hai mẹ con Cám trong buổi thử giày nàng đã bị mụ dì ghẻ bĩu rằng: “Chuông khánh còn chả ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre”. Từ đây trở về sau, các chi tiết chính tạo nên các tình huống chính đều liên can trực tiếp đến sinh mạng của Tâm, và mưu mô ác độc của mụ dì ghẻ và Cám.
Tuy sống sung sướng trong hoàng cung, Tấm vẫn không quên ngày giỗ cha. Chi tiết ấy cho người đọc nhận ra Tấm không chỉ là cô gái thật thà mà còn là người con hiếu thảo. Nàng xin phép nhà vua về phụ với dì ghẻ làm cỗ cúng cha thì bị mụ dì ghẻ lợi dụng lòng hiếu thảo ây sai nàng trèo lên cây cau xé lấy một buồng để cúng bố để đốt cây giết nàng. Mụ còn đưa Cám vào cung thay thế vai trò của chị. Nhà vua thì trong bụng không vui, nhưng vẫn không nói gì cả.
Cái chết của Tấm nảy sinh ra một chuỗi tình huống nhỏ tiếp theo. Tấm chết, hóa làm chim vàng anh, bay thẳng về cung nhắc nhở Cám:
“Phơi áo chồng tao, phai lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao.”
Chim vàng anh được vua vô cùng yêu qúy, cho ở lồng vàng. Cám biết được, nghe lời mẹ bắt vàng anh làm thịt nấu ăn và vứt lông chim ra vườn. Lông chim hóa ra hai cây xoan đào được vua cho mắc võng và ngày nào cũng ra nám hóng mát. Mụ dì ghẻ và Cám lén chặt cây làm khung cửi. Cứ mỗi lần ngồi dệt và Cám nghe lời đe dọa.
Sợ quá, Cám nghe lời mẹ đốt khung cửi rồi sai người mang tro đổ bên vệ đường cách xa hoàng cung. Từ đống tro mọc lên một cây thị chỉ đậu được một quả khi đến mùa, hương thơm ngát tỏa ra khắp nơi. Bà lão hàng nước gần đó thấy bèn xin:
“Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà đem bà ngửi, chứ bà không ăn.”
Về với bà lão hiền từ, Tấm từ quả thị chui ra giúp bà dọn dẹp nhà cửa, múc nước, nấu cơm. Bà lão thấy lạ bèn rình xem. Khi thấy cô gái xinh đẹp thì bà ôm choàng lấy, rồi xé vụn võ thị Từ đó Tấm ở với bà hàng nước, hai người thương yêu nhau như hai mẹ con. Nhân một chuyến vi hành, thấy quán nước sạch sẽ và tươm tất nên nhà vua ghé vào. Bà lão mang cau trầu và nước dáng vua. Thấy miếng trầu têm cánh phượng, vua nhớ tới miếng trầu Tấm têm dâng vua ngày trước, bèn hỏi bà lão. Nhờ vậy mà Tấm và vua đoàn tụ.
Một chuỗi nguyên nhân và kết quả, một chuỗi tình huống nhỏ xuất phát từ cái chết, từ xương thịt của Tấm. Từ chim vàng anh, cây gỗ xoan đào, khung cửi, cây thị đều có gốc từ xương thịt của Tấm mà ra. Nhưng chỉ từ cây thị, quả thị Tấm mới hóa kiếp lại thành người bởi cô đã trả xong những món nợ trong quá khứ mà đạo Phật gọi là nghiệp (nghiệp báo) nay ở vào hoàn cảnh gặp được người lành.
Nếu ở truyện cổ Thạch Sanh – Lý Thông, Thạch Sanh thì tha nhưng Trời thì trừng phạt, cả hai mẹ con Lí Thông bị sét đánh chết thì ở truyện này Tấm lại trả thù, giết chết Cám. Có người cho rằng Tấm nhẫn tâm. Nhưng suy cho cùng thì mẹ con Cám đã tạo nghiệp ác quá nhiều, giết mẹ con Cám là Tấm muôn xóa sạch nghiệp ác ấy, để những người khác không phải chịu hành vi độc ác của mẹ con Cám nếu cả hai còn sống. Cái chết của mẹ con Cám hợp với quy luật: Gieo gió thì gặp bão!
Truyện cổ thần kì “Tấm Cám” kể lại số kiếp long đong trong một phần đời của Tấm kể từ ngày mất mẹ, mất cha, và phải sống với mụ dì ghẻ và đứa em gái cay nghiệt độc ác. Qua nghệ thuật hư cấu truyện với những chi tiết thần kì, phần đời ấy, sự chuyển biến hình tượng của Tấm chính là sự đấu tranh giữa điều thiện với cái ác, là sự mâu thuẫn và xung đột trong gia đình dưới chế độ mẫu hệ. Từ một cô bé mồ côi bị hãm hại phải chết đi sống lại nhiều lần, cuối cùng Tấm vẫn giữ ngôi hoàng hậu đã thể hiện sức mạnh của điều thiện trước cái ác.
“Tấm Cám” là một trong những truyện cổ tích đặc sắc nhất trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam. Tác phẩm kể về cuộc đời và quá trình đấu tranh của Tấm để giành lại sự sống, hạnh phúc cho bản thân. Qua tác phẩm còn thể hiện những quan điểm, triết lí của ông cha ta.
Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ, Tấm sớm mồ côi và sống cùng dì ghẻ và cô em tên Cám. Tấm luôn bị ngược đãi còn Cám chỉ biết rong chơi. Hằng ngày, Tấm phải chăm chỉ làm lụng, hiền lành được bụt giúp đỡ và trong ngày hội đã trở thành hoàng hậu. Đến ngày giỗ cha, nàng về nhà thì bị mẹ con Cám bức hại, và từ đó nàng phải trải qua hết kiếp hóa thân này đến kiếp hóa thân khác mới được trở về sống cùng nhà vua, hưởng hạnh phúc trọn đời. Còn mẹ con Cám bị trừng phạt thích đáng.
Ta có thể thấy mâu thuẫn chính, chủ yếu trong tác phẩm là mâu thuẫn mẹ ghẻ, con chồng. Ông cha ta vẫn thường có câu: “Mấy đời bánh đúc có xương/Mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng”, đây là mâu thuẫn cơ bản dẫn đến hàng loạt các xung đột biến cố phía sau. Từ đó nâng lên thành xung đột giữa thiện – ác, tốt – xấu mang ý nghĩa xã hội to lớn.
Trước hết mâu thuẫn nảy sinh là do sự đối xử bất công của dì ghẻ với Tấm. Hàng ngày Tấm phải làm lụng vất vả từ sáng đến tối, ngày nàng chăn trâu, cắt cỏ, đêm thì giã gạo, xay thóc… cô phải luôn chân luôn tay làm việc, không có lúc nào nghỉ ngơi. Còn Cám lại suốt ngày rong chơi, hái hoa bắt bướm. Và đỉnh điểm của sự việc là khi Tấm bị Cám lừa lấy hết giỏ tép vào giỏ mình về nhà trước nhận phần thưởng là chiếc yếm đỏ. Chiếc yếm đỏ không đơn thuần chỉ là một phần thưởng mà nó còn tượng trưng cho sự trưởng thành, là khát khao của cô gái mới lớn. Mẹ Cám hoàn toàn biết sự thật nhưng vẫn mặc kệ trao thưởng cho Cám, Tấm bất lực chỉ biết ngồi khóc. Như vậy, Tấm trước hết bị Cám tước đoạt quyền lợi về mặt vật chất. Ông Bụt xuất hiện, ban thưởng cũng là bù đắp cho số phận của những người con gái bị lừa gạt. Cá bống xuất hiện làm bạn, xua tan những cô đơn, tủi cực của Tấm. Nhưng đồng thời, chính lúc này Tấm phải đối diện với lần lừa gạt thứ hai. Cá bống là người bạn duy nhất tâm tình cùng Tấm, Tấm “nhường cơm sẻ áo” cho người bạn ấy. Mẹ con Cám khi biết chuyện đã lừa Tấm “đi chăn trâu đồng xa, chớ chăn gần nhà người ta bắt mất trâu” để giết cá bống. Không chỉ tước đoạt phần thưởng vật chất, mẹ con Cám còn tước đoạt niềm vui tinh thần của Tấm. Mâu thuẫn tiếp tục đẩy lên cao hơn, trong ngày hội mẹ Cám trộn một đấu thóc với một đấu gạo, bắt Tấm nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo nhằm ngăn Tấm không được hưởng niềm vui tinh thần – dự hội cùng mọi người. Mẹ con Cám hết lần này đến lần khác đối xử bất công với Tấm, ngăn cản niềm vui, hạnh phúc của Tấm. Đó là biểu hiện của sự độc ác, tàn nhẫn và bất công.
Trước sự đối xử bất công, Tấm chỉ có duy nhất một phản ứng chính là ôm mặt khóc. Cô chỉ mới dừng lại ở việc ý thức được sự đau khổ, chứ chưa có hành động quyết liệt để thoát nỗi đau khổ đó. Tâm luôn cam chịu, nhẫn nhục một cách thụ động. Và để giải quyết những nỗi ấm ức, bất hạnh của Tấm, Bụt xuất hiện sau mỗi tiếng khóc của cô, Bụt ban cho Tấm: cá bống – làm bạn, quần áo – dự hội, đây đồng thời cũng là cơ hội để Tấm có được hạnh phúc. Và kết quả cô đã trở thành hoàng hậu. Đây là mô típ quen thuộc trong văn học dân gian thể hiện quan điểm “Ở hiền gặp lành” của nhân dân ta.
Nhưng nếu câu chuyện mới chỉ dừng lại ở đó thì “Tấm Cám” sẽ nhòe mờ trong vô vàn truyện cổ tích có mô típ tương tự. Câu chuyện tiếp tục phát triển với những mâu thuẫn mới xuất hiện. Khi trở thành hoàng hậu, nàng vẫn giữ trọn vẹn đạo hiếu, ngày giỗ cha trở về nhà làm giỗ. Và cũng chính từ đây hàng loạt biến cố trong đời nàng tiếp tục xảy ra. Dì ghẻ bảo Tấm trèo lên cây hái cau. Còn mụ ta thì ở dưới chặt cây. Tấm thấy động, hỏi thì dì ghẻ bảo đuổi kiến, nhưng kỳ thực mẹ con Cám đang chặt cây cau, cây đổ. Tấm chết và Cám vào cung thay chị làm hoàng hậu. Như vậy Tấm bị cướp đoạt mạng sống và ngôi vị, đây là sự tước đoạt cả về quyền lợi vật chất lẫn tinh thần. Nhưng ở giai đoạn này không còn là cô Tấm cam chịu, Tấm không cam lòng và trở về hoàng cung với nhiều hình dạng khác nhau: chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi và đều bị mẹ con Cám sát hại dã man. Qua hai chặng từ Tấm bị đối xử bất công đến bị mẹ con Cám hại chết cho thấy mâu thuẫn giữa hai tuyến nhân vật càng ngày càng quyết liệt hơn, gay cấn hơn.
Không còn là một nàng Tấm cam chịu trước những bất công, ở chặng thứ hai này, Tấm đã vùng lên phản kháng, đấu tranh một cách quyết liệt. Bởi Tấm không chỉ bị tước quyền lợi vật chất, tinh thần mà còn bị cướp đi cả mạng sống hết lần này đến lần khác, nó đã quá giới hạn chịu đựng của con người. Bởi vậy nàng phải vùng lên đấu tranh, quay trở về tuyên chiến với Cám bằng lời đe dọa:
Không chỉ tuyên chiến mà Tấm còn trừng trị Cám một cách thích đáng và quay lại ngôi vị hoàng hậu hưởng hạnh phúc bên nhà vua. Câu chuyện đến đây còn thêm nhiều ý nghĩa, đó là bài học về: “Ác giả ác báo”, khẳng định cái thiện sẽ luôn giành chiến thắng. Đồng thời qua quá trình đấu tranh của Tấm cũng cho thấy hạnh phúc chỉ thực sự bền lâu khi mỗi chúng ta biết đấu tranh và giữ lấy nó.
Thành công của tác phẩm không chỉ ở nội dung đặc sắc mà còn ở hình thức nghệ thuật. Tấm Cám xây dựng tình huống truyện hấp dẫn, giàu kịch tính theo chiều tăng tiến. Sử dụng linh hoạt các yếu tố thần kì: Ông Bụt là nhân vật trợ giúp; sự thân liên tiếp của Tấm thể hiện ý thức đấu tranh giành hạnh phúc. Nhân vật không đơn nhất một chiều mà có sự phát triển tính cách.
“Tấm Cám” là câu chuyện hấp dẫn, đặc sắc ở cốt truyện lôi cuốn, có sự phát triển. Qua tác phẩm các tác giả dân gian gửi gắm những quan niệm sâu sắc: Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo. Đồng thời truyện cũng phản ánh những mâu thuẫn xung đột trong gia đình thời cổ.
Truyện “Tấm Cám” gồm nhiều nhân vật, chia làm hai hạng người: tốt và xấu, hay thiện và ác. Tấm tiêu biểu cho người tốt, người thiện; Cám và mẹ Cám đại diện cho kẻ xấu, kẻ ác. Người tốt thì siêng năng, hiền lành, thật bụng tin người, chỉ mong được sống hạnh phúc. Kẻ xấu thì lười biếng, dối trá, tham lam, ganh ghét, tàn ác, hại người, chỉ cốt cho riêng mình được sung sướng. Kẻ xấu tìm hết cách để làm hại người tốt. Người tốt chẳng cam chịu một bề mà cố sức vươn lên, chống lại và cuối cùng chiến thắng. Như vậy là ước mơ công bằng, ước mơ hạnh phúc của nhân dân đã được thực hiện.
Xét ở ý nghĩa sâu hơn thì mẹ con Cám đại diện cho tầng lớp áp bức bóc lột trong xã hội, còn Tấm là người bị áp bức. Mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám thực chất là mâu thuẫn giữa người lao động và kẻ bóc lột, giữa thật thà và gian trá, thiện và ác. Người bị áp bức phải chịu muôn vàn khốn khổ, nhưng nếu kiên trì đấu tranh thì sẽ chiến thắng và sẽ được sống hạnh phúc. Còn kẻ áp bức bóc lột nhất định phải bị trừng phạt đích đáng. Quy luật của công lí nhân dân thời xưa là vậy.
Truyện chia làm hai phần. Phần một kể về thân phận của Tấm (cô gái mồ côi) và con đường đến với hạnh phúc của cô. Phần hai kể về cuộc đấu tranh gian nan, quyết liệt để giành và giữ hạnh phúc của Tấm. Cả hai phần đều thể hiện mơ ước “Ở hiền gặp lành” và triết lý về hạnh phúc của người lao động.
Tấm mồ côi mẹ từ khi còn bé. Cha lấy vợ kế, dì ghẻ sinh được một đứa con gái đặt tên là Cám. Sau đó mấy năm thì cha cũng mất, Tấm ở với dì ghẻ. Quan hệ dì ghẻ con chồng chia người trong nhà thành hai hạng. Mẹ con Cám là hạng người áp bức, Tấm là hạng người bị áp bức. Chuyện trong gia đình nhưng chính là chuyện phổ biến trong xã hội đầy bất công thuở ấy. Phần một của truyện kể về thân phận bất hạnh và con đường đến với hạnh phúc của cô gái mồ côi là Tấm.
Một hôm, dì ghẻ bảo Tấm và Cám đi bắt tép và hứa ai bắt được nhiều dì sẽ thưởng cho cái yếm đỏ. Tấm bắt được nhiều, Cám bắt được ít. Nếu thể thì hai chị em chỉ mới khác nhau có một điểm là đứa siêng, đứa lười. Nhưng không chỉ có vậy. Thói thường, đứa lười nhác lại hay kèm theo xấu bụng, dối trá, ranh ma. Cho nên Cám mới giả vờ thương chị, bảo chị xuống sông gội đầu cho sạch tóc. Kì thực, Cám lừa Tấm để trút hết giỏ tép của Tấm vào giỏ mình, rồi mang về trước. Kẻ lười nhác cướp công của người chăm làm. Người vất vả chẳng được hưởng gì, kẻ không làm lại được hưởng tất cả. Số phận người lao động trong xã hội bóc lột thường là như vậy.
Còn cái yếm đỏ, tại sao mụ dì ghẻ lại hứa cho Tấm và Cám phần thưởng đó? Trong xã hội xưa, người con gái mới lớn ai cũng coi cái yếm, nhất là yếm đỏ như một thứ trang sức kín đáo làm tôn thêm vẻ đẹp của người thiếu nữ. Tâm lí ấy cũng có ở Tấm, cho nên mụ dùng chiếc yếm đỏ như miếng mồi nhừ để khai thác sức lao động của Tấm. Quả nhiên, Tấm bắt được nhiều tôm tép và mụ được hưởng tất cả mà chẳng phải mất chút gì.
Còn Cám, ham chơi nhưng lại lừa Tấm: “Chị Tấm ơi chị Tấm, đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về dì mắng”, lời nói tưởng chừng rất ân cần nhưng hóa ra là cạm bẫy. Tấm bị Cám lừa trút hết tép, may mà còn sót con bống nhỏ. Bụt bảo Tấm nuôi bống là để giúp cho Tấm có được một người bạn. Bống lặn sâu dưới giếng để không ai thấy và chỉ hiện lên với Tấm mà thôi. Ngày ngày, Tấm giấu cơm trong thùng gánh nước để nuôi bống. Câu hát Tấm dành riêng cho bống thân thương, ngọt ngào biết mấy: “Bống bống bang bang, lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta, chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”. Cơm nhà ta lấy gì mà thành cơm vàng cơm bạc, mà khác với cơm hẩm cháo hoa nhà người nếu không có thêm tình thương yêu? Nghe lời hát ấy, bống nổi lên ngay, đón lấy tình thương của Tấm và Tấm gửi tình thương vào bống.
Nhưng mụ dì ghẻ và Cám không để Tấm yên. Tội ác thường không biết dừng lại. Mẹ con nhà nó lập mưu hại bống. Dì ghẻ ra lệnh cho Tấm bằng lời khuyên nhủ cố làm ra vẻ ngọt ngào: “Con ơi con! Mai đi chăn trâu phải chăn đồng xa. Chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu”. Lừa Tấm đi xa để ở nhà chúng dễ dàng thi hành kế độc. Chúng bắt bống làm thịt
Mọi đau khổ của Tấm đều bắt nguồn từ mẹ con con Cám. Mâu thuẫn giữa Tấm với dì ghẻ thực chất là mâu thuẫn thiện – ác. Cái ác hiện hình qua các hành động tàn nhẫn của hai mẹ con con cám: lừa gạt trút mất giỏ tép để tước đoạt ước mơ bé nhỏ của Tấm là có được cái yếm đào; lén lút giết chết con bống người bạn bé nhỏ của Tấm. Tấm cô đơn nên chỉ biết khóc mỗi khi bị ức hiếp.
Trong xã hội người bóc lột người thì cuộc sống đau khổ của những đứa con mồ côi là có thực, còn hạnh phúc mà họ được hưởng thường rất hiếm hoi, phần lớn chỉ là mơ ước. Nhưng phản ánh mơ ước về hạnh phúc cũng là cách thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, hy vọng ở tương lai và tin vào lẽ công bằng của nhân dân lao động. Chính vì thế, cái thiện càng bị o ép, áp bức, cái ác càng lộng hành, tác oai tác quái thì càng thể hiện mâu thuẫn sâu sắc không thể dung hòa giữa hai phía, tạo không khí căng thẳng buộc phải thay bậc đổi ngôi.
Con đường đến với hạnh phúc của nhân vật thiện chính là xu hướng giải quyết mâu thuẫn đặc biệt trong truyện cổ tích. Để giải quyết mâu thuẫn đó, con đường dẫn đến hạnh phúc của Tấm không thể thiếu sự tham gia của những nhân vật và yếu tố kì ảo. Yếu tố kì ảo hay lực lượng thần kì là những yếu tố siêu nhiên, sản phẩm do trí tưởng tượng của con người sáng tạo nên. Ở phần đầu truyện, mỗi khi Tấm khóc, Bụt lại xuất hiện an ủi, giúp đỡ cô. Tấm mất yếm đỏ – Bụt cho cá bống. Tấm mất bống – Bụt cho hi vọng đổi đời. Ở phần hai, Tấm bị dì ghẻ cố tình tước đoạt niềm vui, không cho đi xem hội – Bụt cho chim sẻ đến nhặt thóc giúp Tấm và đưa Tấm đến đỉnh cao hạnh phúc. Bụt (tên gọi dân gian của Phật) là nhân vật tôn giáo (Phật giáo) đã được dân gian hóa, trở thành ông lão hiền lành, tốt bụng, thường xuất hiện đúng lúc để thực hiện mơ ước của nhân dân. Cùng với Bụt, con gà và đàn chim sẻ cũng là yếu tố kì ảo, trợ giúp Tấm trên đường tới hạnh phúc. Tấm gặp nhà vua và trở thành hoàng hậu. Hoàng hậu Tấm là hình ảnh cao nhất về hạnh phúc mà nhân dân có thể mơ ước cho các cô gái nghèo khổ, bất hạnh trong xã hội phong kiến ngày xưa. Tấm nhờ chăm chỉ, lương thiện mà được Bụt giúp đỡ từ cô gái mồ côi nghèo khổ trở thành hoàng hậu cao sang. Đó cũng là con đường đến với hạnh phúc của các nhân vật thiện như Tấm.
Đa số các truyện cổ tích kiểu Tấm Cám đều kết thúc khi nhân vật thiện sau bao khổ sở khó khăn đã được hưởng cuộc sống giàu sang, hạnh phúc. Điều đó thể hiện triết lí “ở hiền gặp lành”, khá phổ biến trong truyện cổ tích nói chung; tuy nhiên truyện Tấm Cám không dừng ở kết thúc thông thường đó. Mở đầu phần hai là cảnh nhà vua mở hội. Hội hè là dịp vui chơi của dân chúng. Đến hội, người ta được sống khác ngày thường. Các thứ ràng buộc, nề nếp khắt khe như được giãn ra nên con người thoải mái hơn, hồn nhiên, ý vị hơn. Có thành ngữ vui như hội là vậy. Trong một năm chi mấy lần có hội, cho nên đi hội là niềm vui lớn, là ước mong tha thiết của mọi người.
Biết vậy nên mụ dì ghẻ tìm cách ngăn cản không cho Tấm đi. Mụ trộn thóc vào gạo, bắt Tấm lựa xong mới được đi là cố tình bịa ra một việc làm vô nghĩa với dụng ý đoạ đày. Không còn lừa phỉnh như lần đầu, cũng chẳng cần lén lút như lần thứ hai, sự áp bức, độc ác của mụ giờ đây đã trở thành trắng trợn.
Còn Tấm lần này cũng chẳng giống như mấy lần trước, lức bị Cám lừa lấy hết giỏ tép, chỉ còn sót con bống là bạn tâm tình, là nguồn an ủi. Bống bị mẹ con Cám ăn thịt, may nhờ lòng tốt của con gà nôn Tấm tìm được nắm xương bống đem chôn vào bốn chân giường, tuy không hiểu để làm gì nhưng còn niềm hy vọng. Lần này thì sự bất ngờ to lớn đã đến với Tấm: đàn chim sẻ nhặt thóc giúp, quần áo đẹp, hài thêu, ngựa cưỡi, được vua rước kiệu về cung. Tấm bị khốn khó trong thân phận con ghẻ, trong thân phận người bị áp bức, bóc lột. Nhưng trước sau Tấm vẫn là người lao động giỏi giang, chịu thương chịu khó, hiền lành, tốt bụng. Cho nên nhàn dân muốn Tấm đạt được hạnh phúc cao nhất. Sự đền bù đối với Tấm lần này cũng cao hơn hẳn bởi Bụt đã giúp Tấm: Tấm không những được đi trẩy hội với quần áo đẹp, hài thêu, ngựa cưỡi, khiến mẹ con Cám nhìn thấy phải chết ghen, chết tức mà Tấm cồn được vua chọn làm hoàng hậu.
Mụ dì ghẻ và con Cám chịu sao nổi cảnh ấy? Chúng quyết hại Tấm để giành cho bằng dược địa vị hoàng hậu cao sang. Bốn lần chúng cố tình giết Tấm: khi hái cau ngày giỗ cha, lúc Tấm đã biến thành chim vàng anh, lúc Tấm biến thành hai cây xoan đào rồi khung cửi. Giết Tấm lần thứ nhất là để giành lấy ngôi hoàng hậu. Giết Tấm những lần sau là để giữ vững ngôi sang ấy. Nhưng mỗi lần như vậy, Cám không khỏi run sợ và ngày càng run sợ. Lần nào nó cũng mách mẹ và mụ ta bày đặt ra tất cả. Tội ác không dừng, tội ác cũng không có giới hạn. Muốn giữ quyền lợi của mình, bọn bóc lột không chùn tay trước thủ đoạn nào, kể cả giết người hết kiếp này đến kiếp khác.
Đổi lại, thái độ của Tấm cũng không còn nhẫn nhịn như giai đoạn trước mà là thái độ phản kháng quyết liệt để giành và giữ hạnh phúc cho mình. Trước kia, khi gặp khốn khó, Tấm chỉ biết ôm mặt khóc, rồi chờ có Bụt hiện lên cứu giúp. Tiếng khóc ấm ức ấy chứng tỏ có ý thức được nỗi khổ của mình. Đó là thái độ phản kháng đầu tiên. Cô Tấm hiền lành, lương thiện vừa ngã xuống thì một cô Tấm mạnh mẽ và quyết liệt đã sống dậy, trở về với cuộc đời để đòi hạnh phúc. Tấm không chịu khuất phục. Sau mỗi lần bị giết, Tấm sống lại dưới một hình hài khác. Đặc biệt, dù là chim vàng anh, dù là hai cây xoan đào hay khung cửi, lúc nào Tấm cũng quan tâm chăm sóc cho chồng, tạo cho chồng những phút giây êm ấm. Và trước đó, tuy đã là hoàng hậu cao sang tột bậc, Tấm vẫn giữ bản chất của một cô gái lao động, không quên công việc, kể cả chăm lo ngày giỗ của cha. Cũng như khi trở lại lốt người từ quả thị, Tấm vẫn là một cô gái đảm đang, phúc hậu. Có điều cô gái phúc hậu ấy không dễ dàng dung tha tội ác như trước nữa.
Tấm hoá thành chim vàng anh, báo hiệu cho nhà vua biết sự có mặt của mình. Chim vàng anh bị giết chết, Tấm lại hoá thành hai cây xoan đào. Hai cây xoan đào bị mẹ con nhà Cám chặt làm khung cửi; rồi khung cửi bị đốt thành tro, Tấm hoá ra cây thị, quả thị để trở về với đời… Cái thiện không chịu chết một cách oan ức trong im lặng đã vùng dậy, còn cái ác cũng tìm mọi cách tiêu diệt cái thiện. Những lần chết đi, sống lại của Tấm phản ánh tính chất gay gắt, quyết liệt của cuộc chiến đấu giữa cái thiện với cái ác. Đồng thời thể hiện sức sống mãnh liệt, không thể bị tiêu diệt của cái thiện.
Khi là chim vàng anh, khi là cây xoan đào bị chặt đóng thành khung cửi, mấy lần Tấm cảnh cáo con Cám thất đức bằng những lời chẳng nhẹ nhàng chút nào: “Phơi áo chồng tao, phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào rách áo chồng tao…”; “Cót ca cót két, lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra”. Thái độ của Tấm từ phẫn nộ đã biến thành căm thù trước hành vi cố tình chiếm đoạt quyền lợi, không ngừng gây tội ác của mẹ con Cám.
Kiên trì đấu tranh như vậy nên Tấm đã giành được thắng lợi cuối cùng. Tấm gặp lại vua trong hoàn cảnh hết sức giản dị: tại hàng nước của một bà lão nghèo. Thú vị hơn, vợ chổng nàng gặp lại nhau nhờ miếng trầu tình duyên truyền thống. Miếng trầu têm cánh phượng từ bàn tay khéo léo và dịu dàng của Tấm. Vua cho rước Tấm về cung, hạnh phúc qua bao nhiêu sóng gió nay trở lại trọn vẹn với Tấm.
Nhưng cuộc đấu tranh vẫn chưa chấm dứt. Sau bao lần hóa thân chiến đấu chống kẻ thù, Tấm trở lại với cuộc đời. Dường như Tấm hiểu rằng mình không thể cổ hạnh phúc trọn vẹn khi cái ác còn nhởn nhơ tồn tại, Cám và mụ dì ghẻ vẫn còn đó, thắng lợi của Tấm chưa được coi là trọn vẹn. Quan điểm dân gian là ác giả ác báo, cho nên mới có chuyện con Cám chết bỏng, mụ dì ghẻ chết tươi. Nhân dân ta vẫn cho rằng kẻ gây ra tội ác thì phải gặp ác, phải bị trừng trị một cách đích đáng. Nhờ vậy trên đời mới có công lý, mới bù lại bao nhiêu đau khổ, oan ức mà người lao động, người bị bóc lột phải chịu đựng đời này sang đời khác. Thực tế cuộc sống thời xưa chưa có công lí ấy nên nhân dân vẫn ước mơ mãi mãi. Mẹ con con Cám đã chết, ước mơ ấy được thực hiện và mọi người nghe chuyện đều thỏa lòng.
Truyện “Tấm Cám” thể hiện ước mơ công lí, ước mơ hạnh phúc. Trong cuộc đấu tranh gay go vất vả, Tấm luôn được Bụt (nhân vật kì ảo) giúp đỡ, đền bù và Tấm đã thành hoàng hậu. Thời xưa, vua được coi là người sung sướng nhất (sướng như vua), cho nên được làm vợ vua là hạnh phúc cao nhất. Trái lại, bọn xấu, bọn ác, bọn bóc lột nhất định phải đền tội và đền tội thật đích đáng, Do đó, đối với nhân dân, truyện “Tấm Cám” có một ý nghĩa thật tốt đẹp. Nó là niềm an ủi, là nguồn hy vọng và tin tưởng. Nó giáo dục thái độ yêu ghét rõ ràng, dứt khoát: yêu cái tốt, yêu người lao động chân chính, ghét cái xấu, ghét kẻ bóc lột, ăn bám, tàn ác.
Tuy nhiên, yếu tố kì ảo và vai trò của nó ở phần hai của truyện “Tấm Cám” không giống phần đầu. Nếu như ở phần một của truyện, ta còn thấy Bụt hiện lên ban tặng vật thần kì mỗi lần Tấm khóc, thì ở phần hai, cuộc đấu tranh quyết liệt hơn nhưng ta không còn thấy Tấm khóc, cũng hoàn toàn không thấy sự xuất hiện của Bụt. Nhân dân lao động gửi vào nhân vật Tấm ý thức giành và giữ hạnh phúc của mình. Đó là phải tự mình giành và giữ hạnh phúc thì nó mới bền chặt. Sự hoá thân để trở về với cuộc đời của Tấm phản ánh mơ ước về công bằng xã hội. Người lương thiện không thể chết oan mà phải được hưởng hạnh phúc, còn kẻ ác nhất định bị trừng phạt. Đồng thời thể hiện quan niệm hết sức thực tế về hạnh phúc của người lao động. Họ không cần hạnh phúc ở cõi nào khác, mà tìm và giữ hạnh phúc thực sự ngay ở cõi đời này. Kết thúc có hậu là biểu hiện tập trung của ước mơ. Nhân vật thiện cuối cùng đã được hưởng hạnh phúc như những gì mà trí tưởng tượng lãng mạn của nhân dân có thể hình dung được. Cô Tấm nghèo hèn, bị bắt nạt, bị giết chết, nhưng cuối cùng đã được gặp lại nhà vua, trở về cung tiếp tục làm hoàng hậu. Kết thúc đó cũng thể hiện mơ ước đổi đời của dân chúng. Đó là bức tranh về một xã hội lí tưởng có “vua sáng, tôi hiền”. Trong xã hội mơ ước đó, họ không phải là loại người bần cùng mà ở địa vị tối cao.
“Tấm Cám” là truyện cổ tích phổ biến sâu rộng nhất trong dân gian xưa nay. So với các truyện cùng nội dung ở các nước khác. Nó có những nét Việt Nam đặc sắc và rất hấp dẫn. Truyện biểu hiện tâm hồn lãng mạn, tinh thần lạc quan, yêu đời và niềm khát khao vươn tới cái đẹp cùng điều thiện của nhân dân lao động.
Truyện cổ tích “Tấm Cám” đã vô cùng quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam. Thông qua câu chuyện này, nhân dân ta muốn gửi gắm ước mơ về một cuộc sống công bằng: “ở hiền gặp lành” cũng như “ác giả ác báo”.
Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Tấm vốn hiền lành, xinh đẹp lại chăm chỉ. Cha mẹ mất sớm, Tấm phải sống cùng dì ghẻ và Cám. Mọi công việc trong nhà đều đến tay nhưng vẫn bị mẹ con Cám ngược đãi, tìm cách hãm hại.
Một hôm nọ, dì ghẻ đưa cho hai chị em một cái giỏ và bảo rằng: “Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một cái yếm đỏ!”. Chiếc yếm đỏ không chỉ là một phần thưởng mà còn là biểu tượng của sự trưởng thành. Đối với những cô gái như Tấm và Cám thì đó là niềm khao khát. Chính vì vậy, Tấm đã cố gắng lao động để giành được phần thưởng. Còn Cám lại chỉ biết ham chơi cả buổi. Nhưng cuối cùng, Cám lại nhận được phần thưởng bằng cách lừa Tấm: “Chị Tấm ơi chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về dì mắng”. Cô Tấm hiền lành đã ngây thơ tin theo. Cuối cùng khi lên bờ thì chỉ thấy giỏ không còn tôm tép. Tấm chỉ biết ngồi ôm mặt khóc. Và bụt đã xuất hiện lên giúp đỡ Tấm. Con cá bống còn lại dường như đã giúp Tấm thoát khỏi trận đòn của dì ghẻ. Từ ngày có cá bống, mẹ con Cám thấy Tấm thường lén đem cơm ra phía sau giếng. Chính vì vậy, cả hai đã lừa cô đi chăn trâu đồng xa và giết thịt cá bống. Xương cá bống theo lời của bụt được đem chôn ở bốn góc chân giường. Nhờ có vậy, mà khi nhà vua mở hội, Tấm đã có được quần áo để đi dự hội. Hết lần này đến lần khác, mẹ con Cám luôn tìm cách hãm hại Tấm. Nhà vua mở hội cho người dân cả nước đến xem, chỉ có mình Tấm phải ở nhà nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo. Nhưng một lần nữa bụt lại xuất hiện và làm đúng chức năng của mình. Bụt nhờ đàn chim sẻ nhặt thóc giúp Tấm, giúp Tầm có quần áo đẹp để đi dự hội. Đặc biệt là chi tiết đánh rơi chiếc hài được nhà vua nhặt được. Khắp nơi mọi người đến thử giày nhưng đều không đi vừa. Đôi hài nhỏ nhắn cũng chính là biểu tượng cho quan niệm về cái đẹp của người xưa về người phụ nữ – người phụ nữ xinh đẹp thường có bàn chân nhỏ nhắn. Khi Tấm trở thành hoàng hậu, mẹ con Cám vô cùng ganh ghét, tức giận. Như vậy, ở đây mâu thuẫn chủ yếu xoay quanh những hơn thua về vật chất và tinh thần. Tấm bị mẹ con Cám cướp đoạt trắng trợn công sức lao động, phần thưởng, niềm vui tinh thần. Cô Tấm ở đây luôn trong thế bị động, không thể tự giải quyết xung đột mà phải nhờ đến sự xuất hiện của Bụt. Khi Tấm gặp phải khó khăn là Bụt lại hiện lên đêm đến phép màu giúp Tấm.
Tiếp đến, sau khi Tấm trở thành hoàng hậu. Mẹ con Cám lại nghĩ ra cách để hãm hại Tấm. Ngày giỗ cha đến, Tấm về thăm nhà. Dì ghẻ sai Tấm trèo lên cây cau hái quả xuống để cúng cha. Tấm trèo lên, còn mẹ con Cám ở dưới chặt đổ thân cau. Cô Tấm ngã xuống ao, chết đuối. Cám liền được đưa vào cùng thay thế. Tấm chết liền hóa thành chim vàng anh. Ngày ngày quấn quýt ở bên nhà vua. Vàng anh cất tiếng hót trong trẻo đem lại niềm vui cho nhà vua. Chim vàng anh là hiện thân của một tâm hồn trong trẻo, thánh thiện. Tiếng kêu của chim vàng anh khi Cám đang ngồi giặt quần áo cho nhà vua ở giếng: “Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao” đã cho thấy sự cô Tấm lúc này không còn yếu đuối, bị động như trước đây nữa.
Từ ngày có chim vàng anh, ngày đêm vua chỉ mê mải với chim không tưởng đến Cám. Điều đó khiến Cám vô cùng tức giận liền về nhà mách mẹ. Dì ghẻ sai Cám giết chết chim vàng anh rồi làm thịt, vứt lông chim ra ngoài vườn. Từ chỗ lông chim mọc ra một cây xoan đào. Vua đi qua thấy cây xoan đào “sà xuống che kín thành bóng tròn như hai cái lọng”. Vua thấy cây xoan đào rợp bóng liền sai lính mắc võng để nghỉ ngơi. Hình ảnh cây xoan đào cũng giống như sự quan tâm của Tấm dành cho nhà vua, cũng là tấm lòng thủy chung son sắc của nàng. Khi cây xoan đào bị Cám chặt và đốn thành khung cửi để Cám dệt vải. Tấm lại một lần nữa cảnh báo Cám:
Đó giống như một lời tuyên chiến khiến cho Cám cảm thấy sợ hãi phải đốt khung cửi.
Đến lần thứ ba, từ chỗ tro của khung cửi mọc lên một cây thị. Kỳ lạ là cả cây chỉ có duy nhất một quả thị. Quả thị thơm thảo giống như tấm lòng của nàng Tấm. Một hôm, có một bà lão đi qua liền bảo thị: “Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà để bà ngửi, chứ bà không ăn”. Quả thị rơi xuống. Từ hôm đó, nhà cửa bà lão luôn sạch sẽ, cơm nước tinh tươm. Cô Tấm từ trong quả thị bước ra vẫn xinh đẹp, đảm đang như ngày nào. Hình ảnh đó thể hiện ước mơ của nhân dân dành cho những con người nhân hậu – ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác. Tấm trở lại với một hình hài mới và đoàn tụ với nhà vua, cũng như dành cho mẹ con Cám một sự trừng phạt thích đáng. Ở đây, Tấm luôn ở trong thế chủ động để đấu tranh với mẹ con Cám. Không khóc lóc, không có sự giúp đỡ của Bụt như trước. Nhưng những lần hóa thân của Tấm cho thấy sự chiến đấu không khoan nhượng, sức sống mãnh liệt không thể tiêu diệt của cái thiện. Để rồi cuối cùng, cái thiện đã chiến thắng cái ác. Tấm trở về xinh đẹp hơn xưa. Cám thấy vậy liền hỏi Tấm làm cách nào để xinh đẹp như vậy thì được Tấm chỉ Cám xuống hố, dội nước sôi cho trắng đẹp. Cám làm theo rồi bị chết bỏng. Hành động trả thù của Tấm ở đoạn cuối là một điều tất yếu. Cần phải hiểu Tấm là nhân vật chức năng – nhân vật được xây dựng để thể hiện khát vọng của nhân dân: “ác giả ác báo”.
Truyện cổ tích Tấm Cám đã xây dựng được những mâu thuẫn hết sức điển hình trong xã hội: dì ghẻ – con chồng, kẻ xấu – người tốt. Đồng thời truyện cũng xuất hiện nhiều yếu tố kì ảo: sự xuất hiện của bụt, xương cá biến thành quần áo đẹp, những lần hóa thân của Tấm. Kết hợp với các mô típ quen thuộc như con cá, chiếc hài, sự hóa thân… nhằm thể hiện được những tư tưởng mà nhân dân ta muốn gửi gắm.
Qua phân tích trên, có thể thấy Tấm Cám là câu chuyện đầy lôi cuốn. Cùng với đó là một chân lý mà các tác giả dân gian muốn gửi gắm: “Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo”.
Trong kí ức tuổi thơ của mỗi người, ai mà chưa từng một lần được chìm đắm trong thế giới của truyện cổ tích do bà, do mẹ kể lại. Và trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, không thể không nhắc đến Tấm Cám – một câu chuyện quá quen thuộc.
Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, Tấm phải ở cùng dì ghẻ. Hằng ngày, Tấm phải làm việc vất vả từ sáng đến tối nhưng không lúc nào được nghỉ ngơi.
Một hôm, dì ghẻ sai hai chị em đi bắt tép và hứa rằng ai bắt được nhiều hơn sẽ được thưởng một cái yếm đào. Chiếc yếm đào chính là biểu tượng của sự trưởng thành. Nó là niềm khao khát của biết bao cô gái trong xã hội thời xưa. Vì vậy mà Tấm làm việc chăm chỉ để lấy được chiếc yếm. Còn Cám chỉ mải chơi nên đến cuối buổi chẳng bắt được gì. Cám bèn lừa nói với Tấm rằng: “Chị Tấm ơi chị Tấm, đầu chị lấm, chị hụp cho sâu kẻo về mẹ mắng”. Tấm nghe lời Cám, đến khi lên bờ, nhìn vào rổ thì không còn thấy tép đâu. Tấm chỉ biết ngồi khóc. Bỗng nhiên, Bụt hiện lên bảo Tấm rằng hãy nhìn vào trong gió xem có thấy gì không. Thì ra, trong giỏ vẫn còn một con cá bống. Tấm đem cá bống về nuôi, ngày ngày cho ăn. Mẹ con Cám biết được liền lừa Tấm đi chăn trâu đồng xa để bắt lên giết thịt. Tấm trở về không thấy cá bống đâu, liền bật khóc. Bụt hiện lên bảo Tấm lấy xương cá bống bỏ vào bốn chiếc lọ, chôn vào bốn chân giường.
Ít lâu sau, vua mở hội, mẹ con Cám sắm sắm sửa quần áo đẹp để đi chơi hội. Dì ghẻ không cho Tấm đi, nghĩa ra cách lấy thóc và gạo trộn lẫn với nhau, bắt Tấm nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo rồi mới được đi. Tấm không biết làm thế nào chỉ ngồi khóc. Bụt lại hiện lên sai chim sẻ nhặt thóc giúp. Chim sẻ nhặt một thoáng đã xong. Sau đó, Bụt liền bảo Tấm đào bốn chiếc lọ ở bốn chân giường lên. Bốn chiếc lọ biến thành quần áo đẹp giúp Tấm đi dự hội. Trên đường đi, Tấm đánh rơi chiếc hài xuống nước. Khi ngựa của vua đi ngang qua cứ đứng lại không chịu đi tiếp. Vua sai người xuống nước thì thấy chiếc hài. Vua truyền lệnh cho toàn dân ai đi vừa hài sẽ được làm vợ vua. Không ai đi vừa chiếc hài kể cả Cám. Tới lượt Tấm thử thì chiếc hài vừa như in. Tấm được vua đưa vào cung làm hoàng hậu. Ở đây, Tấm hiện lên là một cô gái mồ côi, đau khổ và tội nghiệp. Còn mẹ con Cám thì lười biếng, độc ác nhẫn tâm. Tấm luôn bị động trước sự ngược đãi của mẹ con Cám. Và Bụt luôn phải hiện lên giúp đỡ.
Chỉ đến khi bị mẹ con Cám giết chết trong ngày về giỗ cha. Để rồi sau đó Tấm lần lượt hóa thân thành vàng anh, cây xoan đào, quả thị rồi trở làm làm người. Cô Tấm lúc này mới trở nên chủ động hơn giành lấy hạnh phúc của mình. Quá trình hóa thân của Tấm diễn ra trong bốn lần. Sau khi bị mẹ con Cám hại chết, Tấm hóa thân thành chim vàng anh. “Chim bay một mạch về kinh đến vườn ngự. Thấy Cám đang ngồi giặt áo cho vua ở giếng, vàng anh dừng lại trên một cành cây, bảo nó:
– Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao”.
Chim vàng anh ngày ngày quấn quýt bên vua không rời, giúp vua vơi đi nỗi nhớ thương nàng Tấm. Vàng anh đại diện cho tâm hồn trong trẻo và tấm lòng thủy chung dành cho nhà vua.
Lần thứ hai, Tấm hóa thân thành một cây xoan đào. Vua đi qua thấy cây xoan đào “sà xuống che kín thành bóng tròn như hai cái lọng”. Cây xoan đào rợp bóng mát nên vui sai lính mắc võng để nghỉ ngơi. Cám sai người chặt làm khung cửi để Cám dệt vải. Tấm lại một lần nữa cảnh báo Cám:
Đó giống như một lời tuyên chiến khiến cho Cám cảm thấy vô cùng sợ hãi và phải đốt khung cửi. Như vậy, sự hóa thân của Tấm lúc này cho sự mạnh mẽ của nàng.
Lần thứ ba, từ chỗ tro của khung cửi mọc lên một cây thị. Kỳ lạ là cả cây chỉ có duy nhất một quả thị. Quả thị thơm thảo giống như tấm lòng của nàng Tấm. Một hôm, có một bà lão đi qua liền bảo thị: “Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà để bà ngửi, chứ bà không ăn”. Quả thị rơi xuống, bà lão hàng nước đem về để trong nhà.
Như vậy, qua truyện Tấm Cám, nhân dân ta muốn khẳng định ước mơ về một cuộc sống công bằng. Người “ở hiền” sẽ “gặp lành”, kẻ sống “ác” sẽ gặp “ác báo”.
Truyện cổ tích là một thể loại đặc sắc thuộc khi tàng văn học dân gian Việt Nam. Tấm Cám đã là câu chuyện cổ tích hết sức quen thuộc mà có ai cũng từng một lần được đọc, được nghe. Truyện mang đầy đủ những đặc điểm của thể loại cổ tích, cũng như chứa đựng bài học nhân văn sâu sắc.
Tấm Cám thuộc thể loại truyện cổ tích thần kỳ với đặc trưng cơ bản nhất ấy là chứa đựng các chi tiết hoang đường kì ảo, phản ánh các mâu thuẫn gia đình xã hội dưới dạng các xung đột giữa thiện – ác, tốt – xấu. Kết cấu được xây dựng là nhân vật chính sẽ trải qua rất nhiều các khó khăn thử thách tăng tiến, thế nhưng cuối cùng họ vẫn vượt qua và được đền bù một cách xứng đáng bằng cái kết có hậu. Ý nghĩa chính là truyền tải các bài học đạo đức và mơ ước về sự công bằng của nhân dân lao động, đồng thời thể hiện sự lạc quan, tin tưởng của dân gian về luật nhân quả. Truyện Tấm Cám thuộc về đề tài con người mồ côi, một đề tài rất phổ biến trong thế giới truyện cổ tích.
Mâu thuẫn chính xuyên suốt trong câu chuyện đó là mâu thuẫn giữa hai tuyến nhân vật chính là Tấm và mẹ con Cám. Đây là mâu thuẫn gia đình trong chế độ phụ quyền thời cổ, xuất phát từ những nguyên nhân tranh chấp tài sản thừa kế sau khi người cha – chủ gia đình mất đi. Mâu thuẫn cụ thể hơn cả là mâu thuẫn giữa dì ghẻ – con chồng, sau đó kéo theo mâu thuẫn giữa hai chị em Tấm – Cám, bởi thân phận cùng cha khác mẹ. Không chỉ vậy, nó còn là một kiểu mâu thuẫn rất hay xảy ra trong xã hội như ỷ đông hiếp yếu, lấy cái quá quắt, độc ác để ức hiếp kẻ hiền lương, không có tiếng nói. Tóm lại đó là những mâu thuẫn giữa thiện – ác, tốt – xấu. Mà cô Tấm là đại diện cho cái thiện, cái tốt còn mẹ con Cám là đại diện điển hình cho cái ác, cái xấu.
Trong “Tấm Cám” sự nảy sinh và phát triển mâu thuẫn phát triển qua hai chặng đường. Chặng thứ nhất là trước khi Tấm trở thành hoàng hậu, chặng thứ hai là sau khi Tấm trở thành hoàng hậu và bị hại chết. Ở chặng thứ nhất, dễ dàng nhận thấy sự nảy sinh mâu thuẫn là bắt nguồn từ sự đối xử bất công của dì ghẻ đối với Tấm. Tấm là đứa trẻ mồ côi mẹ khi còn bé, bố Tấm lấy vợ mới. Dì ghẻ là một người đàn bà độc ác, ích kỷ, không những thế lại có đứa con là Cám, thế nên việc yêu thương chăm sóc con chồng đối với bà ta là điều khó có thể xảy ra. Ngoài xuất phát từ tính cách người dì ghẻ thì nó còn nằm ở âm mưu tranh đoạt quyền thừa kế vật chất sau khi cha Tấm mất. Tấm là con dòng chính, có quyền thừa kế hợp pháp, còn mẹ con Cám là vợ kế nên dĩ nhiên rằng sẽ không có nhiều quyền lợi bằng. Sự đối xử bất công của dì ghẻ là cả một hệ thống những sự việc xảy ra liên tiếp, trong đời sống sinh hoạt gia đình, Tấm phải làm việc quần quật như người ở, ban ngày chăn trâu, gánh nước, vớt bèo, thái khoai, đến đêm thì lại xay thóc, giã gạo. Tấm đang bị lợi dụng triệt để sức lao động để phục vụ cho mẹ con Cám ăn sung mặc sướng. Cám không phải động chân động tay đến bất cứ một công việc nhà nào, qua đó thể hiện rõ sự đối xử bất công giữa con ruột và con riêng, khởi đầu cho một chuỗi các sự kiện mâu thuẫn khác. Mở đầu là sự kiện cái yếm đỏ, vốn là thứ mọi cô gái mới lớn đều ao ước, thế nhưng trong quá trình làm việc để giật thưởng, thì Cám lại lừa lấy hết cá tép của Tấm, chảy về nhận yếm. Dì ghẻ là người đẻ ra Cám sao lại không hiểu được với cái tính ham ăn lười làm, õng ẹo của cô ta thì làm gì mà bắt được nhiều tép cá như vậy. Thế nhưng vốn bản tính thiên vị, dì ghẻ vẫn trao phần thưởng cho cô con gái yêu của mình. Còn ngược lại Tấm biết rằng mình bị đối xử bất công, thế nhưng lại không dám đứng lên đấu tranh đòi công bằng, mà chỉ biết ngồi khóc bên chiếc giỏ trống không. Ở đây cũng cho thấy một điều rằng bản thân Tấm đã bị tước đi quyền lợi về vật chất. Tấm ngồi khóc và được Bụt hiện lên mách cho đem con cá bống còn sót lại trong giỏ về thả xuống giếng nuôi. Tấm đã phải nhường lại một bát cơm cho bống ăn, đổi lại bống cho Tấm được những phút giây vui vẻ sau những giờ làm lụng cật lực, đó có thể coi là một phần thưởng để an ủi cho những bất công mà Tấm phải chịu đựng trong suốt thời gian qua. Thế nhưng, lòng người ích kỷ và độc ác, con vật vốn được xem như một người bạn, là thứ Tấm giành biết bao tâm huyết lại bị mẹ con Cám bắt lên giết thịt. Ở đây không phải là mẹ con Cám thèm thịt con cá, mà vấn đề nằm ở chỗ họ muốn tước đoạt đi cái niềm vui và sự hạnh phúc nhỏ bé của Tấm, tước đoạt đi cái quyền lợi về mặt tinh thần. Sự bất công của mẹ con Cám còn được đẩy lên cao nữa khi nhà vua mở hội cho mọi người dân đến xem, dì ghẻ đã trộn một đấu thóc và một đấu gạo, bắt Tấm lựa riêng từng thứ ra. Mục đích chính là ngăn không cho Tấm đi dự hội. Cô Tấm lại tiếp tục bị tước đi cái quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền lợi về tinh thần.
Ở chặng thứ hai, sau khi Tấm được Bụt giúp đỡ được đi xem hội, rồi từ chiếc hài nàng vô tình đánh rơi mà trở thành hoàng hậu thì mẹ con Cám lại càng trở nên độc ác. Đỏ mắt vì ghen tị với sự may mắn, với cuộc sống sung túc và hạnh phúc của Tấm thế nên mẹ con nhà này đã âm mưu giết chết Tấm để đưa Cám vào thay thế ngôi vị hoàng hậu. Mà kinh khủng hơn là việc hại chết Tấm không chỉ diễn ra một lần mà có tới bốn lần liên tiếp như vậy. Lần đầu tiên là trong ngày giỗ bố, tuân thủ đạo hiếu truyền thống của người Việt, Tấm dù thân đã là hoàng hậu thế nhưng vẫn về nhà cúng giỗ. Cô còn nghe lời dì ghẻ trèo hái cau để cúng cho cha. Để rồi bị mẹ con Cám hại chết. Nhưng khác với chặng một, một cô Tấm luôn luôn cam chịu, chỉ biết khóc lóc và nhờ đến sự giúp đỡ của bụt. Thì ở chặng hai Tấm đã bắt đầu có những thay đổi về tâm lý. Trước sự bất công và độc ác của mẹ con Tấm, đặc biệt là khi nhìn thấy chồng mình, hạnh phúc của mình bị Cám trắng trợn cướp đoạt, Tấm đã bừng lên ý chí, nghị lực sống mạnh mẽ, nàng không cam lòng biến mất khỏi thế gian nên đã biến thân thành chim vàng anh quay về quấn quýt với nhà vua. Tuy nhiên, trước sự hiện diện của chim, Cám lại càng ghen tức vì nghĩ mình còn chẳng bằng một con vật, thế nên nghe lời xúi giục của mẹ Cám đã giết thịt chim và ném lông ra vườn. Như vậy, một lần nữa Tấm lại bị mẹ con Cám tước đoạt quyền được sống, được hạnh phúc bằng một cách vô cùng tàn nhẫn. Cũng như lần trước, linh hồn của Tấm không dễ dàng bị khuất phục như vậy, nàng vẫn quyết quay về bên vua, dưới hình dạng hai cây xoan đào để vua mắc võng nằm ngủ hóng mát. Và lần này, Cám thấy vậy, lại tiếp tục hại Tấm bằng cách chặt cây lấy gỗ làm khung cửi, hòng diệt trừ mọi thứ khiến ngôi vị của nàng ta lung lay. Tấm không hóa thân thành loài nào khác mà nàng ngự ở trong chính cái khung cửi mà Cám tạo ra. Điều đó không có nghĩa rằng ý chí, sự kiên cường tồn tại của Tấm đang yếu đi mà thậm chí nàng còn trở nên mạnh mẽ và chính thức có những động thái quyết liệt đầu tiên thể hiện sự xung đột gay gắt, đối đầu với sự độc ác của Cám. Câu đe dọa:
Chính là sự quyết tâm trừng trị Cám của Tấm để giành lại công bằng cho bản thân. Với sự độc ác không điểm dừng của mình mẹ con Cám không lấy đó là sợ mà lại tiếp tục dùng mưu kế hiểm độc, đốt khung cửi rồi đem vứt tro ở một nơi rất xa hoàng cung để đề phòng sự trở lại của Tấm. Có thể nói đây là đỉnh điểm của sự độc ác, mẹ con Cám quyết tâm diệt cỏ tận gốc.
Qua hai chặng đường, từ cảnh Tấm bị đối xử bất công khi còn ở nhà, cho đến khi vào cung làm hoàng hậu thì lại bị hại chết hết lần này đến lần khác, thể hiện cái mâu thuẫn giữa hai tuyến nhân vật đại diện thiện – ác ngày càng quyết liệt và đi lên đến đỉnh điểm. Từ những mâu thuẫn tranh đoạt về vật chất và tinh thần trong gia đình, cho đến những mâu thuẫn về quyền lợi về vật chất và tinh thần trong xã hội, giữa địa vị của hoàng hậu với dân thường. Từ tước đoạt về các giá trị vật chất, tinh thần chuyển sang gay gắt hơn ở việc tước đoạt mạng sống con người. Có thể nói rằng mâu thuẫn giữa thiện ác tốt xấu, diễn ra rất dai dẳng, bền bỉ và quyết liệt trong xã hội. Từ đó mở ra bước ngoặt cho câu chuyện là sự trở lại đầy mạnh mẽ và sự trừng trị thích đáng của Tấm dành cho mẹ con Cám.
Sau những lần chịu nhiều thiệt thòi cả về vật chất, tinh thần, lẫn tính mạng, khi mà sự độc ác của mẹ con Cám không có dấu hiệu dừng lại thì buộc Tấm phải vùng dậy để chống lại sự bất công để giành lại quyền lợi cho bản thân mình. Tấm từ việc chỉ hóa thân trong các sự vật như chim chóc, cây cối, khung cửi, thì cuối cùng nàng cũng trở lại trong hình dáng con người, chính thức sống lại lần nữa từ trong quả thị thơm để quay lại trừng trị mẹ con Cám. Trước một khởi đầu mới, thì Tấm đã trở nên mạnh mẽ và không còn cam chịu, tuy nhiên nàng vẫn giữ cho mình vẻ hiền lành, để Cám tưởng rằng Tấm vẫn như trước cam chịu, nhẫn nhịn sự chèn ép của mẹ con nàng ta. Cuối cùng sự độc ác của Cám đã phải trả giá bằng chính mạng sống của mình, vì ham đẹp mà nhảy vào cái hố đầy nước sôi do Tấm chuẩn bị.
Qua câu chuyện này, nhân dân ta muốn gửi gắm ở đây không còn là bài học ở hiền gặp lành nữa mà là bài học “gieo gió gặt bão” “gieo nhân nào thì gặp quả ấy”. Thứ hai là bài học niềm tin về cuộc đấu tranh giữ thiện. Cuối cùng là bài học khuyên răn con người ta phải biết tự đấu tranh, giữ gìn hạnh phúc cho mình, bởi chỉ có những hạnh phúc do bàn tay mình làm nên thì nó mới có thể bền vững.
Truyện “Tấm Cám” quả thật là câu chuyện cổ tích đem đến cho người đọc những bài học sâu sắc trong cuộc sống.
Tuổi thơ của mỗi chúng ta có lẽ không ai là không từng được nghe bà, nghe mẹ kể những truyện cổ tích dân gian. Tấm Cám là một trong số đó. Qua câu chuyện này, nhân dân ta muốn gửi gắm một bài học ý nghĩa trong cuộc sống.
Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Tấm vốn hiền lành, xinh đẹp lại chăm chỉ. Cha mẹ mất sớm, Tấm phải sống cùng dì ghẻ và Cám. Mọi công việc trong nhà đều đến tay nhưng vẫn bị mẹ con Cám ngược đãi, tìm cách hãm hại.
Một hôm nọ, dì ghẻ đưa cho hai chị em một cái giỏ và bảo rằng: “Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một cái yếm đỏ!”. Chiếc yếm đỏ không chỉ là một phần thưởng mà còn là biểu tượng của sự trưởng thành. Đối với những cô gái như Tấm và Cám thì đó là niềm khao khát. Nên Tấm cố gắng làm việc chăm chỉ để lấy được chiếc yếm. Còn Cám chỉ mải chơi nên đến cuối buổi chẳng bắt được gì. Nhưng Cám lại lợi dụng sự ngây thơ của Tấm để lừa nàng: “Chị Tấm ơi chị Tấm, đầu chị lấm, chị hụp cho sâu kẻo về mẹ mắng”. Tấm làm theo lời Cám, đến khi lên bờ, nhìn vào rổ thì không còn thấy tôm tép đâu. Tấm chỉ biết ngồi khóc. Bỗng nhiên, Bụt hiện lên bảo Tấm rằng hãy nhìn vào trong gió xem có thấy gì không. Thì ra, trong giỏ vẫn còn một con cá bống. Tấm đem cá bống về nuôi, ngày ngày cho ăn. Mẹ con Cám biết được liền lừa Tấm đi chăn trâu đồng xa để bắt lên giết thịt. Tấm trở về không thấy cá bống đâu, liền bật khóc. Bụt hiện lên bảo Tấm lấy xương cá bống bỏ vào bốn chiếc lọ, chôn vào bốn chân giường. Ít lâu sau, vua mở hội, mẹ con Cám sắm sắm sửa quần áo đẹp để đi chơi hội. Dì ghẻ không cho Tấm đi, mụ nghĩ ra cách lấy thóc và gạo trộn lẫn với nhau, bắt Tấm nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo rồi mới được đi. Tấm không biết làm thế nào lại ngồi khóc. Bụt lại hiện lên sai chim sẻ nhặt thóc giúp. Chim sẻ nhặt một thoáng đã xong. Sau đó, Bụt liền bảo Tấm đào bốn chiếc lọ ở bốn chân giường lên. Bốn chiếc lọ biến thành quần áo đẹp giúp Tấm đi dự hội. Bụt xuất hiện đã giúp đỡ Tấm trên con đường tìm đến hạnh phúc. Nhân vật này đã làm tròn chức năng của mình trong câu chuyện.
Trên đường đi, Tấm đánh rơi chiếc hài xuống nước. Khi ngựa của vua đi ngang qua cứ đứng lại không chịu đi tiếp. Vua sai người xuống nước thì thấy chiếc hài. Vua truyền lệnh cho toàn dân ai đi vừa hài sẽ được làm vợ vua. Tấm đi vừa đôi hài và trở thành vợ vua. Đến ngày giỗ cha, Tấm về nhà thì bị mẹ con Cám bày kế giết chết. Tấm chết đi lần lượt hóa thành chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, quả thị, cuối cùng trở lại làm người sống cùng bà hàng nước. Sự hóa thân này đã thể hiện sức sống mãnh liệt của con người trước sự vùi dập của kẻ ác.
Mỗi một lần hóa thân của Tấm đều gửi gắm một ý nghĩa. Chim vàng anh là hiện thân của một tâm hồn trong trẻo, thánh thiện. Tiếng kêu của chim vàng anh khi Cám đang ngồi giặt quần áo cho nhà vua ở giếng: “Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao” đã cho thấy sự cô Tấm lúc này không còn yếu đuối, bị động như trước đây nữa.
Từ ngày có chim vàng anh, ngày đêm vua chỉ mê mải với chim không tưởng đến Cám. Điều đó khiến Cám vô cùng tức giận liền về nhà mách mẹ. Dì ghẻ sai Cám giết chết chim vàng anh rồi làm thịt, vứt lông chim ra ngoài vườn. Từ chỗ lông chim mọc ra một cây xoan đào. Vua đi qua thấy cây xoan đào “sà xuống che kín thành bóng tròn như hai cái lọng”. Vua thấy cây xoan đào rợp bóng liền sai lính mắc võng để nghỉ ngơi. Hình ảnh cây xoan đào cũng giống như sự quan tâm của Tấm dành cho nhà vua, cũng là tấm lòng thủy chung son sắc của nàng. Khi cây xoan đào bị Cám chặt và đốn thành khung cửi để Cám dệt vải. Tấm lại một lần nữa cảnh báo Cám:
Đó giống như một lời tuyên chiến khiến cho Cám cảm thấy sợ hãi phải đốt khung cửi.
Lần thứ ba, từ chỗ tro của khung cửi mọc lên một cây thị. Kỳ lạ là cả cây chỉ có duy nhất một quả thị. Quả thị thơm thảo giống như tấm lòng của nàng Tấm. Một hôm, có một bà lão đi qua liền bảo thị: “Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà để bà ngửi, chứ bà không ăn”. Quả thị rơi xuống. Từ hôm đó, nhà cửa bà lão luôn sạch sẽ, cơm nước tinh tươm. Cô Tấm trở lại làm người rồi được đoàn tụ với nhà vua. Còn mẹ con Cám phải chịu trừng phạt thích đáng – nhận lấy cái chết. Điều đó thể hiện về mong muốn của nhân dân ta, người ở hiền gặp lành, kẻ ác giả sẽ gặp phải ác báo.
Tóm lại, Tấm Cám là câu chuyện mang tính nhân văn sâu sắc. Truyện thể hiện ước mơ về một cuộc sống công bằng của nhân dân ta.
Đã là người Việt Nam, trong thời thơ ấu của mình có mấy ai không từng được nghe kể chuyện Tấm Cám, và hình ảnh cô Tấm mồ côi, tội nghiệp đã làm lay động bao trái tim nhân hậu. Ở Pháp có truyện Lọ Lem, Đức có Cô Tro Bếp, Campuchia có Nêang – Cantóc…. Nhiều dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng có những truyện tương tự Tấm Cám: Tua Gia Tua Nhi (Tày), Ý Ưởi Ý Noọng (Thái),… Khác với những truyện tương tự Tấm Cám ở phương Tây, Truyện Tấm Cám còn cuộc đấu tranh gian nan và quyết liệt để giành và giữ hạnh phúc của Tấm.
Tấm xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo khổ, mẹ mất sớm, cha lấy mẹ kế, có em gái cùng cha khác mẹ. Ngày qua ngày, Tấm bị dì ghẻ bóc lột đến sức cùng lực kiệt, mọi việc lớn nhỏ đều một tay Tấm làm. Bóc lột sức lao động chưa đủ, Tấm còn bị đày đọa cả về tinh thần, cô sống trong đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần. Ta thấy Tấm chính là hiện thân của những cô gái nhà lành, là nạn nhân của sự áp bức bóc lột trong xã hội xưa. Mâu thuẫn giữa Tấm với mẹ con dì ghẻ chính là xung đột thiện – ác trong cuộc đời. Cái ác hiện hình trong mẹ con mụ dì ghẻ qua hàng loạt hành động lừa gạt, chèn ép, lén lút, trắng trợn trộn thóc với gạo nhằm ngăn chặn bước chân Tấm đến với niềm vui, với khát khao hòa nhập… Tiếng khóc tội nghiệp của Tấm gọi dậy niềm cảm thông, chia sẻ của mọi người. Cái thiện càng bị o ép, áp bức, cái ác càng lộng hành tạo nên không khí căng thẳng buộc phải thay đổi.
Truyện cổ tích thần kì sẽ kết thúc khi cái thiện lên ngôi, cái ác, cái xấu bị dập tắt, người ở hiền thì gặp lành, cuộc sống sẽ trở về đúng quỹ đạo của nó. Để giải quyết mọi mâu thuẫn sẽ đưa vào đó yếu tố thần kì như ông Bụt, bà Tiên… Truyện Tấm Cám nhờ sự giúp sức của nhân vật Bụt để giải quyết xung đột. Mỗi khi Tấm gặp khó khăn hay đau khổ, Bụt đều dang rộng tay mà nâng đỡ. Không có yếm đào, Tấm được tặng cá bống. Cá bống bị giết, Tấm chôn giấu ước mơ. Mẹ con Cám làm khó, Bụt cho chim sẻ đến giúp Tấm. Bụt đã được dân gian hoá, trở thành ông lão hiền lành, tốt bụng, hóa phép cho số phận hẩm hiu cho người nghèo. Không chỉ Bụt mà những con vật nhỏ bé bên cạnh cũng góp công không nhỏ giúp cô trên đường tới hạnh phúc. Rõ ràng, việc Tấm trở thành hoàng hậu là hoàn toàn hợp lý, đó chính là hạnh phúc tươi đẹp và xứng đáng nhất. Những phép màu sẽ cất cánh cho ước mơ và chữa lành những vết thương. Mỗi phép màu được mang đến là niềm tin về lẽ phải, về công bằng xã hội được nhân đôi.
Trong truyện Tấm Cám, đôi giày của Tấm không có ý nghĩa giao duyên mà tại sao “đàn bà con gái trong đám hội chen nhau đến ướm chân vào giày”. Phải chăng bởi không ai muốn đánh mất cơ hội kiếm tìm hạnh phúc cho mình. Ướm giày, họ hi vọng một mai sẽ dẫn mình đến tương lai tốt đẹp và nhận món quà may mắn của số phận. Ta hiểu rằng, đằng sau luỹ tre làng yên tĩnh luôn ấp ủ bao hy vọng đổi thay, họ gửi gắm nó vào miền đất mang tên truyện cổ tích để ươm mầm và chắp cánh cho ước mơ bình dị ấy. Cuộc đời Tấm từ bơ vơ đến trọn vẹn, từ cô đơn đến hạnh phúc, từ tầm thường rồi làm hoàng hậu.
Truyện Tấm Cám tiếp thêm một chặng nửa của cuộc đời nhân vật. Khi Tấm trong hình hài bóng cây để trở về bị phát hiện, mẹ con Cám lập tức chặt cây đem đốt. Khi cành cây đổ xuống cũng là khi Tấm cam chịu, dịu hiền đã chết, sự trở về của ngày mai là cô Tấm gan dạ, kiên cường, dám đứng lên, dám đấu tranh, công khai chống lại cái ác đòi hạnh phúc. Tấm đã thay những thân phận thấp cổ bé họng để “ oán thì trả oán, ân thì trả ân” đến tận cùng. Tấm hoá vàng anh, bay vào cung vua báo hiệu sự có mặt của mình trong lời nhắc nhở “Giặt áo chồng tao, thì giặt cho sạch, phơi áo chồng tao, thì phơi bằng sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao”, vàng anh bị giết chết. Tấm hoá cây xoan đào (khung cửi), tuyên chiến với kẻ thù trực tiếp và dữ dội hơn “Lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra”, khung cửi bị đốt cháy. Từ tro bụi, Tấm trở lại với đời trong hình hài một quả thị. Sự công bằng không để một cô gái lương thiện như Tấm phải chết oan ức trong thầm lặng mà “đi trả thù và sống tự do”.
Cuối cùng Tấm đã chiến thắng. Kết thúc đó mang đến ánh sáng và vẻ đẹp lãng mạn cho truyện cổ tích, làm cho nó có sức hấp dẫn đặc biệt đối với mọi thế hệ, khẳng định sức mạnh cái đẹp, cái thiện của nhân dân lao động Việt Nam xưa. Cô Tấm cuối cùng đã trở về với bình dị của hương thôn đầy hiền lành tốt bụng. Kết thúc đó là bức tranh về một xã hội lí tưởng có “vua hiền, tôi giỏi”, dân chúng được hưởng hạnh phúc.
Truyện “Tấm Cám ” là một truyện cổ tích thần kì rất quen thuộc trong nhân dân ta. Nhiều nước bên Tây, bên Đông Nam Á cũng có những truyện kể tương tự như truyện “Tấm Cám”.
Tấm hiền lành. Mụ dì ghẻ và cô em gái mình hành hạ đủ điều mà không hề oán trách. Đi bắt cua, Tấm bắt được nhiều, Cám bắt được ít. Cám lừa cho Tấm hụp xuống sông để trộm tôm tép. Bà dì ghẻ bảo Tấm đi chăn trâu ở đồng xa, Tấm cũng vâng lời. Người ta đi hội vui vẻ, Tấm phải ở nhà nhặt thóc, Tấm cũng không dám oán trách, … Tấm không có mưu mô thủ đoạn, không cãi cọ gây chuyện với ai, yên lòng với số phận hẩm hiu tội nghiệp của mình. Tấm hiền lành như thế. Tấm luôn luôn bị khinh thường, hành hạ, nhưng lại được Bụt, được Tiên giúp đỡ. Bụt bày cho Tấm nuôi con bống để cho đời Tấm đỡ cô quạnh. Bống chết, Bụt bày cho Tấm chôn xương nó vào hũ, để sau này xương biến thành quần áo, giày dép để cho Tấm mặc đi hội. Tấm bị chết. Bụt lại hoá phép cho Tấm thành chim, thành cây. Tấm còn được hoá thành quả thị thơm tho, thành cô gái quê biết têm trầu cánh phượng, nghĩa là cũng thành quả quý, người đẹp. Dù ở hoàn cảnh nào, dù mang lốt người hay lốt chim, lốt cây, Tấm cũng vẫn có đức tính là hiền lành, tốt nết. Tại sao Phật, Bụt lại cho Tấm biến hoá thành nhiều kiếp như vậy? Cách biến hoá ấy chỉ cốt nói lên một điều: cái tốt không bao giờ mất đi cả. Bị ngăn trở, bị hãm hại đến đâu, cái tốt vẫn tồn tại. Cô Tấm bị giết nhưng cô không chết! Tạm thời cô chỉ phải đổi lốt mà thôi. Chim vẫn nói được tiếng nói của Tấm. Cây xoan đào thành khung cửi, vẫn phát ra lời của Tấm. Tấm vẫn sống, vẫn chứng kiến mọi việc xảy ra xung quanh mình, vẫn thấy cái ác cái xấu của Cám và đã báo trước những lời trừng phạt. Sức sống của Tấm là như thế. Sức sống ấy tồn tại mãi mãi. Dù mẹ con Cấm có tốn bao nhiêu công sức, có tìm hết cách để tiêu diệt sức sống ấy thì cũng không thể diệt được. Sự sống luôn luôn biến hoá: lúc là người, lúc là chim, lúc là cây, lúc là quả, lúc là đồ vật. Dù mang hình thức gì đi nữa thì vẫn là nàng Tấm xinh đẹp, nết na trường tồn, bất diệt.
Người ác trong truyện này là hai mẹ con Cám. Cái xấu của Cám là ở bản tính lừa gạt. Cám lừa chị Tấm để trút hết tôm tép, chạy về nhà trước, chỉ cốt được lợi cho mình, mặc cho cô chị khốn khổ mang giỏ không về nhà, chịu sự đánh đập nhiếc móc của bà dì ghẻ. Sau hành động ấy, Cám trở thành cô bé nghe theo mẹ mà lao vào những tội ác. Không nghĩ ra được những mưu mẹo, nhưng đã thực hành những mưu mẹo ấy thì cũng đáng giận, đáng ghét rồi. Bà mẹ Cám thì thật là gian ác và tai ngược. Bà ta cố tìm cách hại Tấm, hết cách này sang cách khác. Ta có cảm tưởng bà ta đứng sẵn đâu đó, hễ thấy Tấm ló đầu ra là để hành hạ, để không cho Tấm được xuất hiện giây phút nào trong cuộc sống nữa. Lừa cho Tấm đi chăn trâu xa để mẹ con ở nhà ăn thịt bống. Bắt tấm nhặt thóc lẫn với gạo để giam Tấm lại trong nhà. Xui Tấm trèo cau để chặt cây cho Tấm ngã. Cho con gái mặc quần áo giả dạng Tấm để lừa hoàng tử. Rồi lại xui làm thịt chim vàng anh, xui chặt cây xoan đào, xui đốt khung cửi cốt làm cho Tấm phải hết đường tái sinh. Mụ ta là hiện thân của cái ác, cái ác đội lốt người. Tại sao bà ta ác như vậy? Một phần, vì bà ta là dì ghẻ. Ca dao có câu: “Mấy đời bánh đúc có xương- Mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng? Bà ta muốn cho con mình sung sướng để được sướng lây. Bà ta không biết rằng làm như thế chỉ đẩy cô Cám vào cảnh khổ. Cám tuy được hưởng nhiều thứ của Tấm, nhưng lúc nào cũng bị tiếng nguyền rủa dội vào tai. Đó là một hình phạt đối với Cám. Cuối cùng Cám chết và mẹ Cám cũng chết theo. Trời, Bụt đã trừng phạt mẹ con họ. Tấm chỉ chết tạm thời, chỉ là một sự hoá thân, chết mà vẫn sống. Còn mẹ con Cám thì chết vĩnh viễn, chết mãi mãi, chết trong sự khinh ghét của chúng ta, của mọi người.
Truyện cổ tích “Tấm Cám” còn hay ở chỗ: trong truyện, cuộc sống của đất nước Việt Nam ta được hiện lên rất sinh động. Trong truyện có cảnh mò cua bắt ốc, cảnh chăn trâu, có quán nước bán hàng, có những hội hè đình đám, có đám giỗ cha, có cơi trầu mời khách. Thật là một đất nước có nhiều phong tục đẹp. Không một truyện cổ tích nào có nhiều hiện tượng phong tục phong phú như truyện này. Các loài vật, các cây cỏ, các dụng cụ đều được đưa vào trong truyện. Có con cá nhỏ bé hiền lành như con cá bống, có con chim nhảy nhót như chim vàng anh. Có con chim sẻ nhặt thóc, có khung cửi kẽo cà kẽo kẹt, có ông hoàng tử khi ở trong cung sang trọng, khi ra ngồi quán nước với bà lão bình dân… Thật là rất Việt Nam. Cả một đất nước hiền lành, đủ cả con người, cả chốn cung đình, cả nơi thôn dã, cùng với bao nhiêu sắc màu, cảnh vật thiên nhiên. Học truyện “Tấm Cám ”, nên biết điều đó, cũng như phải nhớ ý nghĩa của truyện là: “ở hiền gặp lành”.
Truyện “Tấm Cám ” còn có một điều hay nữa mà rất nhiều truyện cổ tích không có hoặc có rất ít. Đó là khi kể chuyện, người ta dẫn thêm những câu ca, câu hát. Đấy là một đặc điểm của truyện cổ tích Việt Nam. Những lời văn gây một không khí sinh động cho câu chuyện thêm phần đằm thắm. Hãy đọc lại những câu rất vui như của gà: “Cục ta cục tác, cho ta nắm thóc, ta bới xương cho”. Hoặc những câu rất cảm động như: “Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh chui vào tay áo”.Cái hồn cổ tích, cái chất Việt Nam nằm trong những câu ca, điệu nói ấy.
Tấm Cám là một câu chuyện cổ tích độc đáo để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Xung quanh câu chuyện này có biết bao vấn đề cần luận bàn, nhưng trong phạm vi bài viết này người viết nên đưa ra hai vấn đề để người đọc cùng xem xét, đánh giá. Đó là vấn đề xung đột mâu thuẫn và hành động trả thù của Tấm.
Ông cha ta có câu: Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời mẹ ghẻ mà thương con chồng để nói về mối quan hệ của hai đối tượng này. Ngày nay, khi xã hội đã văn minh, quyền bình đẳng, tự do của con người phát triển đặc biệt là văn hóa, kinh tế phát triển vấn đề tranh chấp quyền lợi giữa các thành viên trong gia đình đặc biệt giữa mẹ kế với con chồng gần như không còn. Nhưng trong xã hội xưa, xung đột này là rất lớn, nó gần như không hóa giải được. Nên sự xung đột giữa Tấm và dì ghẻ không thể không có. Tuy nhiên theo đánh giá của tôi thì xung đột giữa Tấm và Cám – hai chị em cùng cha khác mẹ mới thực sự quyết liệt và trực tiếp. Nó diễn ra liên tục và xuyên suốt tác phẩm.
Mở đầu câu chuyện, mụ dì ghẻ sai Tấm và Cám ra đồng bắt tép và giao hẹn: ai bắt được nhiều hơn thì sẽ được thưởng một chiếc yếm đỏ. Đi bắt không được thì phạt đòn. Tấm chăm chỉ, khéo léo nên đã được đầy giỏ; còn Cám mải chơi, hái hoa bắt bướm nên chẳng bắt được con nào. Trước tình thế đó Cám nghĩ rằng mình không những không được yếm mới mà còn bị đòn nữa, nên Cám đã lừa dối và cướp công của chị. Cám bảo: Chị Tấm ơi, chị Tấm! đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về dì mắng. Tấm thật thà tưởng thật xuống sông tắm rửa, Cám ta ở trên bờ trút hết giỏ tép của chị đem về nhận phần thưởng. Ở đây, chưa hề có xung đột giữa mẹ ghẻ – con chồng. Dì ghẻ của Tấm đến giờ phút này cũng hết sức công bằng, không thiên vị. Và hành động lừa gạt của Cám hoàn toàn là tự ý chủ động không có sự dặn dò, sai khiến của mẹ. Tất cả là do lòng tham muốn có được yếm mới của Cám mà thôi.
Như vậy, người cướp công của Tấm chính là Cám. Và sau này cũng chính là Cám đã theo dõi việc nuôi bống của Tấm và xui mẹ giết thịt. Cũng chính là Cám lấy quần áo của Tấm, cướp chồng Tấm và năm lần bảy lượt giết Tấm (giết chim vàng anh lấy thịt cho mèo, chật xoan đào, đốt khung cửi – hiện thân của Tấm). Cám đã trực tiếp nhúng tay vào tội ác, liên tục tấn công hãm hại và cướp đoạt quyền lợi của Tấm. Càng về sau thì hành động của Cám càng quyết liệt, dã man hơn. Ở đây ngoài việc chặt cau cho Tấm ngã chết ra thì mụ dì ghẻ chỉ tham gia vào mọi việc với tư cách quân sư – bày mưu tính kế giúp Cám mỗi khi nó về than khóc. Có lẽ vì thế mà sự tấn công của Tấm (ở kiếp sau) đều hướng về Cám (vàng anh, khung cửi) đặc biệt là sự trả thù khốc liệt của Tấm ở cuối truyện.
Nói như vậy không có nghĩa truyện Tấm Cám không có xung đột giữa mẹ ghẻ – con chồng mà chẳng qua là xung đột là gián tiếp không liên tục mà thôi. Nhưng dù sao, sự xung đột ấy cũng góp phần làm tăng thêm sự nặng nề, phức tạp cho xung đột giữa Tấm và Cám (liên hệ với truyện Cô bé lọ lem…).
Có thể nói, truyện Tấm Cám vừa có xung đột mẹ ghẻ – con chồng vừa có chị em cùng cha khác mẹ – những người cùng thị… Sự xung đột này diễn ra theo cấp độ tăng tiến: từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, từ trong nhà ngoài xã hội (hội làng, cung vua), từ kiếp này đến kiếp khác. Nó dai dẳng và khốc liệt (nhan đề đưa đến mâu thuẫn chính).
Nhưng điều gây bàn cãi nhất trong câu chuyện này là hành động trả thù của Tấm. Trước khi bị giết, Tấm dịu hiền, ngây thơ mỗi khi gặp khó khăn, bị đối xử bất công. Tấm chỉ biết khóc và nhờ vào sự giúp đỡ của lực lượng thần kì (Ông Bụt). Thế nhưng, đến cuối truyện, hành động của Tấm lại quyết liệt khiến cho người nghe hả hê, sảng khoái, vì thiện đã thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà. Tuy nhiên, cũng không ít người có ý kiến cho rằng hành động của Tấm là quá tàn nhẫn, nó mâu thuẫn với bản chất, con người của Tấm.
Quả là, nếu như chúng ta thoát ra khỏi câu chuyện thì hành động trả thù của Tấm thật đáng sợ, nó mâu thuẫn với chính con người của Tấm. Nhưng trước hết, ta phải xét đến thể loại truyện. Đây là một câu chuyện cổ tích, nó có đặc trưng là tưởng tượng, hư cấu và có chức năng phản ánh đời sống, ước mơ của nhân dân. Đáp ứng nhu cầu nhận thức, thẩm mĩ, giáo dục và giải trí của nhân dân trong những thời kỳ, hoàn cảnh lịch sử khác nhau của xã hội có giai cấp. Điều đó có nghĩa vào thời điểm đó, nhu cầu lớn nhất của con người là khát vọng công bằng trong xã hội: ác giả ác báo. Cho nên hành động trả thù của Tấm là thỏa mãn ước nguyện của người lao động, nó mang tính chủ quan của người sáng tác.
Mặt khác, nếu như trong các truyện cổ tích khác, lực lượng thần kỳ xuất hiện với chức năng như luật pháp không những giúp đỡ người tốt mà còn trừng trị kẻ xấu. Chẳng hạn như trong truyện Thạch Sanh lực lượng thần kỳ không chỉ giúp sức cho Thạch Sanh vượt qua thử thách mà còn thay Thạch Sanh trừng phạt mẹ con Lý Thông. Còn trong truyện Tấm Cám thì lực lượng thần kỳ xuất hiện chỉ như người chỉ đường mà thôi. Tất cả từ đầu đến cuối, đều do con người hành động (giảm vai trò của lực lượng thần kỳ là muốn nâng cao vai trò của con người). Nên việc để cho Tấm báo thù Cám là tất yếu. Và cũng nhờ thế mà ta thấy Tấm hiện lên chân thật hơn.
Hành động trả thù của Tấm là hành động của một con người bị áp bức, hành động diệt trừ, loại bỏ hoàn toàn cái ác, cái xấu, xây dựng một xã hội tốt đẹp như con người mong ước. Do vậy hành động của Tấm là tất nhiên và hoàn toàn chấp nhận được. Tuy nhiên ta phải đặt nó trong xã hội ấy và nhìn nó dưới quan điểm thẩm mỹ (tại thời điểm ấy) đương thời.
Bằng bút pháp hư cấu với các yếu tố thần kỳ tạo ra sự ly kỳ hấp dẫn cho người đọc. Nhưng với ngôi kể thứ ba tạo ra sự khách quan chân thật, bởi thế truyện có ý nghĩa giáo dục rất lớn, hướng con người sống lương thiện hơn.
Trong kho tàng văn học dân gian, truyện cổ tích là một trong những thể loại để lại nhiều dấu ấn sâu đậm, với những câu chuyện hay, mang nhiều ý nghĩa giáo dục rất nhân văn. Ông cha ta từ xa xưa đã dùng chính những câu chuyện cổ tích này để giáo dục cho con cháu những bài học đạo đức, hướng con người ta đến với chữ “thiện”, quy luật nhân quả, dạy cho ta những đức tính, phẩm chất tốt đẹp ở đời như lòng ngay thẳng, chính trực, bài trừ cái ác trong cuộc sống. Có thể nói rằng, bên cạnh những câu ca dao, những lời ru thì truyện cổ tích chính là thể loại văn học mà mỗi đứa trẻ được tiếp xúc và quen thuộc nhất trước khi đến với thế giới văn chương rộng lớn. Tấm Cám đã là câu chuyện cổ tích hết sức quen thuộc mà có lẽ ai cũng từng một lần được nghe kể hoặc thấy trên các phương tiện truyền thông báo đài khi trở thành đề tài chính đi vào phim ảnh, kịch phẩm,… Mang đầy đủ các nét đặc trưng của truyện cổ tích, Tấm Cám đã đem đến cho người đọc những bài học nhân sinh sâu sắc.
Tấm Cám là truyện thuộc thể loại truyện cổ tích thần kỳ với đặc trưng cơ bản nhất ấy là chứa đựng các chi tiết hoang đường kì ảo trợ giúp cho nhân vật chính, phản ánh các mâu thuẫn gia đình xã hội dưới dạng các xung đột giữa thiện – ác, tốt – xấu. Với kết cấu là nhân vật chính sẽ trải qua rất nhiều các khó khăn thử thách tăng tiến, thế nhưng cuối cùng họ vẫn vượt qua và được đền bù một cách xứng đáng bằng cái kết có hậu mỹ mãn. Ý nghĩa chính là truyền tải các bài học đạo đức và mơ ước về sự công bằng của nhân dân lao động, đồng thời thể hiện sự lạc quan, tin tưởng của dân gian về luật nhân quả. Truyện Tấm Cám thuộc về đề tài con người mồ côi, một đề tài rất phổ biến trong thế giới truyện cổ tích.
Mâu thuẫn chính xuyên suốt trong câu chuyện đó là mâu thuẫn giữa hai tuyến nhân vật chính là Tấm và mẹ con Cám, đây là mâu thuẫn gia đình trong chế độ phụ quyền thời cổ, xuất phát từ những nguyên nhân tranh chấp tài sản thừa kế sau khi người chủ gia đình là cha của Tấm mất đi. Cụ thể trong câu chuyện này là mâu thuẫn giữa dì ghẻ – con chồng, sau đó kéo theo mâu thuẫn giữa hai chị em Tấm Cám, bởi thân phận cùng cha khác mẹ, có tranh chấp về quyền lợi vật chất trong gia đình. Không chỉ vậy, nó còn là một kiểu mâu thuẫn rất hay xảy ra trong xã hội ỷ đông hiếp yếu, lấy cái quá quắt, độc ác để ức hiếp kẻ hiền lương, không có tiếng nói. Chung quy lại những mâu thuẫn ở đây đều được thể hiện trong xung đột thiện – ác, tốt – xấu, mà cô Tấm là đại diện cho cái thiện, cái tốt còn mẹ con Cám là đại diện điển hình cho cái ác, cái xấu. Có thể nói rằng từ cổ chí kim, mối quan hệ xung đột này vẫn luôn kéo dài dai dẳng và không hề có hồi kết, thậm chí ngày càng trở nên gay gắt và quyết liệt hơn. Từ đó ta cũng nhận thấy rằng đây là một vấn đề phản ánh hiện thực xã hội sâu sắc.
Trong Tấm Cám sự nảy sinh và phát triển mâu thuẫn phát triển qua hai chặng đường, chặng thứ nhất là trước khi Tấm trở thành hoàng hậu, chặng thứ hai là sau khi Tấm trở thành hoàng hậu và bị hại chết. Ở chặng thứ nhất, dễ dàng nhận thấy sự nảy sinh mâu thuẫn là bắt nguồn từ sự đối xử bất công của dì ghẻ đối với Tấm. Tấm là đứa trẻ mồ côi mẹ khi còn bé, bố Tấm lấy vợ mới. Và dĩ nhiên dân gian có câu “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng” là cũng có cái nguyên do của nó. Mẹ Cám là một người đàn bà khắc nghiệt, ích kỷ, không những thế lại có đứa con là Cám, thế nên việc yêu thương chăm sóc con chồng đối với bà ta là điều khó có thể xảy ra. Bởi ở đây, ngoài xuất phát từ tính cách người dì ghẻ thì nó còn nằm ở âm mưu tranh đoạt quyền thừa kế vật chất sau khi cha Tấm mất. Tấm là con dòng chính, có quyền thừa kế hợp pháp, còn mẹ con Cám là vợ kế nên dĩ nhiên rằng sẽ không có nhiều quyền lợi bằng. Sự đối xử bất công của dì ghẻ là cả một hệ thống những sự việc xảy ra liên tiếp, trong đời sống sinh hoạt gia đình, Tấm phải làm việc quần quật như người ở, ban ngày chăn trâu, gánh nước, vớt bèo, thái khoai, đến đêm thì lại xay thóc, giã gạo. Có thể nói rằng Tấm đang bị lợi dụng triệt để sức lao động để phục vụ cho mẹ con Cám ăn sung mặc sướng. Ngược lại với Tấm thì cô em Cám lại không phải làm việc nặng, chỉ quanh quẩn ở nhà, thể hiện rõ sự đối xử bất công giữa con ruột và con riêng, khởi đầu cho một chuỗi các sự kiện mâu thuẫn khác. Khởi đầu là sự kiện cái yếm đỏ, vốn là thứ mọi cô gái mới lớn đều ao ước, thế nhưng trong quá trình làm việc để giật thưởng, thì Cám lại lừa lấy hết cá tép của Tấm, chảy về nhận yếm. Mụ dì ghẻ là người đẻ ra Cám sao lại không hiểu được với cái tính ham ăn lười làm, õng ẹo của cô ta thì làm gì mà bắt được nhiều tép cá như vậy. Thế nhưng vốn bản tính thiên vị dì ghẻ vẫn trao phần thưởng cho cô con gái yêu của mình. Còn ngược lại Tấm biết rằng mình bị đối xử bất công, thế nhưng lại không dám đứng lên đấu tranh đòi công bằng, mà chỉ biết ngồi khóc bên chiếc giỏ trống không. Ở đây cũng cho thấy một điều rằng bản thân Tấm đã bị tước đi quyền lợi về vật chất. Sau đó sự đối xử bất công tiếp theo, đến từ chuyện Tấm ngồi khóc và được Bụt hiện lên mách cho đem con cá bống còn sót lại trong giỏ về thả xuống giếng nuôi. Tấm đã phải nhường lại một bát cơm cho bống ăn, đổi lại bống cho Tấm được những phút giây vui vẻ sau những giờ làm lụng cật lực, đó có thể coi là một phần thưởng để an ủi cho những bất công mà Tấm phải chịu đựng trong suốt thời gian qua. Thế nhưng, lòng người ích kỷ và độc ác, con vật vốn được xem như một người bạn, là thứ Tấm dành biết bao tâm huyết lại bị mẹ con Cám bắt lên giết thịt ăn. Ở đây không phải là mẹ con Cám thèm thịt con cá, mà vấn đề nằm ở chỗ họ muốn tước đoạt đi cái niềm vui và sự hạnh phúc nhỏ bé của Tấm, tước đoạt đi cái quyền lợi về mặt tinh thần. Sự bất công của mẹ con Cám còn được đẩy lên cao nữa ở sự kiện ngày hội làng, dì ghẻ đã trộn một đấu thóc và một đấu gạo, bắt Tấm lựa riêng từng thứ ra. Mục đích chính là ngăn không cho Tấm đi dự hội làng, là ngày vui, để giao lưu, gặp gỡ, để se duyên cho các chàng trai cô gái đến tuổi dựng vợ gả chồng. Tấm lại tiếp tục bị tước đi cái quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền lợi về tinh thần.
Ở chặng thứ hai, sau khi Tấm được Bụt giúp đỡ được đi xem hội, rồi từ chiếc hài nàng vô tình đánh rơi mà trở thành hoàng hậu thì mẹ con Cám lại càng trở nên độc ác. Đỏ mắt vì ghen tị với sự may mắn, với cuộc sống sung túc và hạnh phúc của Tấm thế nên mẹ con nhà này đã âm mưu giết chết Tấm để đưa Cám vào thay thế ngôi vị hoàng hậu. Mà kinh khủng hơn là việc hại chết Tấm không chỉ diễn ra một lần mà có tới 4 lần liên tiếp như vậy. Lần đầu tiên là trong ngày giỗ bố, tuân thủ đạo hiếu truyền thống của người Việt, Tấm dù thân đã là hoàng hậu thế nhưng vẫn về nhà trèo hái cau để cúng cho cha, và đó chính là cơ hội để mụ dì ghẻ chặt gốc cau khiến Tấm ngã mất mạng. Thế nhưng khác với chặng một, Tấm luôn luôn cam chịu, khóc lóc thì ở chặng hai Tấm đã bắt đầu có những thay đổi về tâm lý. Trước sự bất công và độc ác của mẹ con Tấm, đặc biệt là khi nhìn thấy chồng mình, hạnh phúc của mình bị Cám trắng trợn cướp đoạt, Tấm đã bừng lên ý chí, nghị lực sống mạnh mẽ, nàng không cam lòng biến mất khỏi thế gian nên đã biến thân thành chim vàng anh quay về quấn quýt với nhà vua. Tuy nhiên, trước sự hiện diện của chim, Cám lại càng ghen tức vì nghĩ mình còn chẳng bằng một con vật, thế nên nghe lời xúi giục của mẹ Cám đã giết thịt chim và ném lông ra vườn. Như vậy, một lần nữa Tấm lại bị mẹ con Cám tước đoạt quyền được sống, được hạnh phúc bằng một cách vô cùng tàn nhẫn. Cũng như lần trước, linh hồn của Tấm không dễ dàng bị khuất phục như vậy, nàng vẫn quyết quay về bên vua, dưới hình dạng hai cây xoan đào để vua mắc võng nằm ngủ hóng mát. Và lần này, Cám thấy vậy, lại tiếp tục hại Tấm bằng cách chặt cây lấy gỗ làm khung cửi, hòng diệt trừ mọi thứ khiến ngôi vị của nàng ta lung lay. Lần này Tấm không hóa thân thành loài nào khác mà nàng ngự ở trong chính cái khung cửi mà Cám tạo ra. Điều đó không có nghĩa rằng ý chí, sự kiên cường tồn tại của Tấm đang yếu đi mà thậm chí nàng còn trở nên mạnh mẽ và chính thức có những động thái quyết liệt đầu tiên thể hiện sự xung đột gay gắt, đối đầu với sự độc ác của Cám. Câu đe dọa “Lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra” chính là sự quyết tâm trừng trị Cám của Tấm để giành lại công bằng cho bản thân. Với sự độc ác không điểm dừng của mình mẹ con Cám không lấy đó là sợ mà lại tiếp tục dùng mưu kế hiểm độc, đốt khung cửi rồi đem vứt tro ở một nơi rất xa để đề phòng sự trở lại của Tấm. Có thể nói đây là đỉnh điểm của sự độc ác, diệt cỏ tận gốc của hai mẹ con nhà này hòng tiêu diệt Tấm để chính thức ngồi vững ngôi hoàng hậu. Như vậy qua hai chặng đường, từ cảnh Tấm bị đối xử bất công khi còn ở nhà, cho đến khi vào cung làm hoàng hậu thì lại bị hại chết hết lần này đến lần khác, thể hiện cái mâu thuẫn giữa hai tuyến nhân vật đại diện thiện – ác ngày càng quyết liệt và đi lên đến đỉnh điểm. Từ những mâu thuẫn tranh đoạt về vật chất và tinh thần trong gia đình, cho đến những mâu thuẫn về quyền lợi về vật chất và tinh thần trong xã hội, giữa địa vị của hoàng hậu với dân thường. Từ tước đoạt về các giá trị vật chất, tinh thần chuyển sang gay gắt hơn ở việc tước đoạt mạng sống con người. Có thể nói rằng mâu thuẫn giữa thiện ác tốt xấu, diễn ra rất dai dẳng, bền bỉ và quyết liệt trong xã hội. Từ đó mở ra bước ngoặt cho câu chuyện là sự trở lại đầy mạnh mẽ và sự trừng trị thích đáng của Tấm dành cho mẹ con Cám.
Sau những lần chịu nhiều thiệt thòi cả về vật chất, tinh thần, lẫn tính mạng, khi mà sự độc ác của mẹ con Cám không có dấu hiệu dừng lại thì buộc Tấm phải vùng dậy để chống lại sự bất công để giành lại quyền lợi cho bản thân mình. Tấm từ việc chỉ hóa thân trong các sự vật như chim chóc, cây cối, khung cửi, thì cuối cùng nàng cũng trở lại trong hình dáng con người, chính thức sống lại lần nữa từ trong quả thị thơm để quay lại trừng trị mẹ con Cám. Thế nhưng trước hết ta nói về cách giải quyết mâu thuẫn của cô Tấm khi cô bị đối xử bất công để có thể thấy rõ được sự thay đổi của nhân vật này qua hai chặng. Ở chặng một, khi bị chèn ép, bị tước đoạt quyền lợi, hầu như Tấm chưa bao giờ phản kháng mà ta chỉ thấy ở nhân vật này sự yếu đuối nhu nhược, khóc lóc. Tuy nhiên do chăm chỉ, hiền hậu thế nên nàng luôn được Bụt giúp đỡ mỗi khi gặp khó khăn và sự bù đắp đó có lẽ là đủ thế nên cô Tấm không có cơ hội để phản kháng, giành lại sự công bằng cho riêng mình. Tuy nhiên, sang đến chặng thứ hai “Con giun xéo lắm cũng phải quằn” việc tước đoạt không chỉ nằm ở quyền lợi vật chất tinh thần mà nó trở nên gay gắt hơn, ấy là cả mạng sống và sự cách biệt giữa địa vị hoàng hậu và thường dân. Cô Tấm hiền lành, cam chịu nhưng không có nghĩa là cô ngu muội, để cho kẻ khác hết lần này đến lần khác hãm hại, tước đoạt mạng sống của mình, địa vị của mình. Tấm thoát khỏi cái vỏ cam chịu, nhu nhược, chủ động trở lại khiêu khích, đe dọa kẻ thù của mình, đấu tranh một cách quyết liệt. Hóa thân hết lần này đến lần khác để quay trở về vị trí của mình, đặc biệt trước sự độc ác tăng tiến của mẹ con Cám thì Tấm cũng ngày càng thông minh hơn, trong lần cuối cùng nàng dù đã hóa thân thành người nhưng vẫn một mực ở ngoài cùng chờ hoàng thượng đến đón để đảm bảo an toàn tính mạng của mình, rồi sau đó mới quay trở về trừng trị kẻ thủ ác. Trước một khởi đầu mới, thì Tấm đã trở nên mạnh mẽ và không còn cam chịu, tuy nhiên nàng vẫn giữ cho mình vẻ hiền lành, để Cám tưởng rằng Tấm vẫn như trước cam chịu, nhẫn nhịn sự chèn ép của mẹ con nàng ta. Cuối cùng sự độc ác của Cám đã phải trả giá bằng chính mạng sống của mình, vì ham đẹp mà nhảy vào cái hố đầy nước sôi do Tấm chuẩn bị. Xung quanh những ý kiến trái chiều về hành vi của Tấm, thì có thể lý giải rằng, cô Tấm là người hiền lành, thế nhưng thực tế nàng không có chỗ dựa về mặt luật pháp, kể cả có vua hay có bụt thì những người này cũng chỉ cho tấm được về mặt vật chất, tinh thần, địa vị còn riêng sự an toàn tính mạng thì không ai cho nàng được. Thế nên nàng buộc phải vùng lên tiêu diệt kẻ thù của mình, để đảm bảo cho bản thân, tránh khỏi việc cũ tái diễn một lần nữa và không chắc được rằng những lần sau nữa nàng có thể tránh thoát và quay trở về hay không. Bên cạnh đó cái chết của mẹ con Cám còn mang ý nghĩa giáo dục về luật nhân quả “Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”, kẻ thủ ác phải nhận lấy những gì mà họ đã gây ra cho người khác. Huống chi không chỉ bóc lột sức lao động, tước đoạt quyền lợi của Tấm mà họ còn rắp tâm giết Tấm tận bốn lần, nay phải trả giá bằng mạng sống của mình chung quy là “ác giả ác báo”. Và cuối cùng chi tiết Tấm trừng trị Cám, cũng thể hiện sự logic về mặt diễn biến tính cách, tâm lý của nhân vật qua nhiều lần thập tử nhất sinh, thể hiện sự vươn lên mạnh mẽ, sự trưởng thành trong suy nghĩ của nhân vật. Và xét về địa vị, Tấm là hoàng hậu, là người dưới một người trên vạn người, để cai quản hậu cung, nàng không thể mãi là người yếu đuối mà phải trở nên quyết đoán, biết tự bảo vệ mình thì mới có thể tồn tại trong hoàng cung sóng vai cùng với hoàng thượng được.
Advertisement
Từ kết quả của câu chuyện, tác giả dân gian muốn truyền tải đến độc giả các thế hệ những bài học sâu sắc và thấm thía. Ở đây không còn là bài học ở hiền gặp lành nữa mà là bài học “gieo gió gặt bão” “gieo nhân nào thì gặp quả ấy”, thứ hai là bài học niềm tin về cuộc đấu tranh giữ thiện và ác dẫu có dai dẳng, dẫu có trải qua rất nhiều thăng trầm thì chắc chắn cuối cùng bao giờ phần thắng cũng thuộc về cái thiện. Và thêm một bài học nữa ấy là tác phẩm khuyên răn con người ta phải biết tự đấu tranh, giữ gìn hạnh phúc cho mình, bởi chỉ có những hạnh phúc do bàn tay mình làm nên thì nó mới có thể bền vững.
Tấm Cám là truyện cổ điển hình và tiêu biểu nhất cho thể loại truyện cổ thần kì. Với trí tưởng tượng phong phú, cách xây dựng nhân vật toàn diện, cốt truyện lôi cuốn, hấp dẫn, nhân dân ta đã gửi gắm vào nhân vật này ước mơ, khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp, công bình, kẻ xấu bị trừng trị, người tốt được báo đáp, công lí được thực thi. Vượt lên trên thời gian, truyện cổ Tấm Cám vẫn còn gây hứng thú đối với người đọc nhiều thế hệ, trở thành câu chuyện kể mang hàm ý giáo dục con người sâu sắc.
Chuyện kể về cuộc đời và số phận đầy bất hạnh của nhân vật Tấm. Tấm là một cô gái hiền lành, xinh đẹp, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, phải sống với dì ghẻ và Cám – cô em cùng cha khác mẹ. Tấm luôn bị mẹ con Cám ghen ghét và ngược đãi. Một lần đi hớt tép Tấm bị Cám lừa lấy hết tép, chỉ còn lại con bống nhỏ. Tấm nghe lời Bụt khuyên nuôi chú cá bống trong giếng. Biết Tấm nuôi cá bống, mẹ con Cám lừa bắt bống ăn thịt. Ngày hội, mẹ con Cám trộn thóc lẫn gạo bắt Tấm nhặt, không cho đi xem hội. Bụt lại hiện lên giúp Tấm làm việc và biến chỗ xương của bống thành quần áo đẹp cho Tấm đi hội. Tấm đi xem hội đến chỗ lội, đánh rơi chiếc giày xuống nước. Nhờ chiếc giày, Tấm được làm vợ vua. Tấm về giỗ cha, bị mẹ con Cám hại chết và đưa Cám thế chỗ Tấm trong cung vua.
Tấm chết hóa thành chim vàng anh, cây xoan đào, con ác trên khung cửi và khi thành quả thị thì được một bà lão đem về. Mỗi khi bà lão đi vắng, Tấm hiện ra dọn dẹp nhà cửa. Sau đó bà lão phát hiện ra Tấm. Một hôm, nhà vua đi qua, ghé vào quán nước của bà cụ. Nhận ra Tấm qua miếng trầu, đưa Tấm về cung. Tấm hạnh phúc bên vua còn mẹ con Cám sau đó bị trừng trị đích đáng.
Nhân vật chính trong truyện chính là cô Tấm. Tấm mang thân phận mồ côi cha mẹ từ rất sớm. Cô sống với dì mụ ghẻ độc ác và cô em cùng cha khác mẹ là Cám. Trong hoàn cảnh ấy, Tấm luôn bị đối xử bất công, chịu nhiều thiệt thòi và khổ đau.
Với bản tính hiền lành lại rất chăm chỉ, Tấm sớm biết làm mọi việc trong nhà. Phẩm chất ấy không những không được trân trọng mà còn bị mẹ con dì ghẻ ghen tức, hành hạ, bắt cô phải lao động quần quật suốt ngày. Mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng. Cuộc sống làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn khiến cho số phận của Tấm chứa đầy bất hạnh, cay đắng và khổ cực.
Chính lòng đố kị và thù ghét Tấm của mẹ con Cám khiến cho mâu thuẫn gia đình từng bước dâng cao. Mâu thuẫn đầu tiên bắt đầu từ chuyện đi bắt tép của chị em Tấm Cám. Bản chất của Cám không khác gì mụ gì ghẻ, lúc nào cũng giành phần hơn với chị nên đã xảo quyệt lừa chị lặn sâu mà tranh thủ trút hết tép của chị. Đó là hành động cướp công đê tiện. Rồi đến chuyện rình mò việc Tấm nuôi bống trong giếng của mẹ con Cám rồi đi đến hành động bắt bống ăn thịt. Dường như, mẹ con Cám không muốn Tấm có bất kì một niềm vui nào trong cuộc sống. Họ cố gắng tìm mọi cách cướp đoạt niềm vui và đẩy tấm vào đau khổ.
Mâu thuẫn được đẩy lên cao điểm trong lần đi xem hội. Tấm háo hức muốn đi nhưng mụ gì ghẻ lại nghĩ ra cách tàn nhẫn bắt Tấm phải ở nhà. Mụ gì ghẻ không nghĩ rằng Tấm sẽ có được gì trong buổi hội ấy, chỉ đơn giản là mụ không muốn Tấm có niềm vui mà thôi. Nhờ Bụt giúp đỡ mà nàng có cơ hội được đến với mọi người. Tình cờ ướm thử và vừa vặn với chiếc giày đã làm thay đổi cuộc đời Tấm. Từ một cô gái quê mùa trở thành hoàng hậu khả kính. Điều đó như một vết dao khoét sâu vào lòng ghen tức của mẹ con mụ gì ghẻ, thôi thúc mụ có âm mưu tàn độc đối với cô, đẩy mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám lên đến cực điểm
Qua các tình tiết, ta có thể thấy, Tấm là cô gái bất hạnh, bị hắt hủi, yếu đuối, thụ động, dễ khóc, chăm chỉ, hiền ngoan, cũng khát khao được vui chơi. Mẹ con Cám là người độc ác, nhẫn tâm hành hạ Tấm, luôn ghen ghét và đố kị, hãm hại Tấm. Bụt hiền từ, có phép lực, chuyên cứu giúp những người nghèo bất hạnh. Ở đây, Bụt đóng vai trò là yếu tố thần kì kịp thời giải quyết khó khăn, bế tắc của người bất hạnh, tạo nên nét đặc biệt hấp dẫn của loại truyện này.
Mâu thuẫn ban đầu chỉ là sự hơn thua về vật chất, tinh thần, sự ghen ghét mẹ ghẻ con chồng. Những lúc này Tấm luôn là người nhường nhịn, chịu thua thiệt. Sự nhường nhịn của Tấm khiến cho mẹ con Cám không những không nhận ra và trân trọng mà còn ngày càng lấn tới và lún sâu vào tội lỗi. Bởi thế, khi Tấm trở thành hoàng hậu, mâu thuẫn giữa Tấm – Cám và dì ghẻ không những không giảm mà còn ngày một phát triển, ngày một căng thẳng gay gắt, quyết liệt hơn.
Đây không còn là mâu thuẫn gia đình mà phát triển thành mâu thuẫn giữa cái ác và cái thiện trong xã hội. Mẹ con Cám tìm đủ mọi cách và nhiều lần truy đuổi hòng tiêu diệt bằng được Tấm để độc chiếm ngôi hoàng hậu, hưởng vinh hoa phú quý. Đó là con người vô cùng độc ác, mưu mô, xảo quyệt và có lòng tham vô đáy.
Âm mưu giết Tấm lại được thực hiện ngay ngày giỗ của cha Tấm. Một sự bất lương, đê tiện đang âm thầm diễn ra. Tấm vẫn ngây thơ không biết gì bởi nàng luôn tin vào điều thiện và sự cải hóa của con người. Mẹ con Cám nhẫn tâm chặt cây cau khiến nàng ngã chết. Cám thế chỗ chị lên làm hoàng hậu. Hồn Tấm hóa thành con chim vàng anh. Mẹ con Cám giết vàng anh, nàng hóa thân thành cây xoan đào. Mẹ con Cám chặt cây xoan đào, nàng hóa vào khung cửi. Khung cửi bị đốt, nàng hóa thân vào quả thị thơm. Và cuối cùng, từ quả thị, Tấm bước ra với hình dung con người.
Với bốn lần hóa thân, Tấm càng đấu tranh quyết liệt để giành sự sống. Thực tế khốc liệt cũng thay đổi tính nết và cách nói năng, ứng xử của cô. Sau mỗi lần bị giết, bị chết, bị chặt, bị đốt, Tấm đều không chết mà tìm cách hoá thân sang kiếp khác, vật khác, tìm cách mắng rủa, tố cáo tội ác cướp chồng, giết chị của Cám. Càng hóa thân, Tấm càng trưởng thành hơn. Các lần hóa thân chứng minh sức sống mãnh liệt của Tấm. Đó cũng là sức sống mãnh liệt của cái thiện.
Bốn lần bị giết, bốn lần hóa thân thể hiện quan niệm luôn luân hồi của đạo Phật trong tinh thần nhân dân, thể hiện mơ ước của nhân dân gửi vào nhân vật Tấm.
Tấm phải sống để hưởng hạnh phúc, để trừng trị những kẻ thù độc ác, mẹ con Cám nhất định phải đền tội. Ở giai đoạn biến hoá về sau của Tấm, ta không thấy Bụt xuất hiện nữa. Vai trò của Bụt chấm dứt khi bước vào cuộc đấu tranh giành lại sự sống. Tính tích cực, chủ động của nhân vật Tấm thể hiện ở điểm này và đó cũng là cơ sở để dân gian khẳng định: Chính sức sống mãnh liệt của con người, của cái thiện mới là nguyên nhân quan trọng nhất tạo nên chiến thắng cuối cùng.
Khi Tấm trở lại ngôi vị hoàng hậu, nàng xinh đẹp hơn xưa. Qua đó, dân gian muốn khẳng định rằng cái thiện không bao giờ chịu khuất phục, chính nghĩa không bao giờ đầu hàng. Cái thiện sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ lẽ phải và công lí. Kết cấu câu chuyện nêu lên một triết lí: “ở hiền gặp lành”. Đây cũng là ước mơ, khát vọng của người nông dân bị đè nén, áp bức.
Mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám là mâu thuẫn trong gia đình phụ quyền thời cổ nhưng trên hết là mâu thuẫn giữa thiện và ác trong xã hội và được giải quyết theo hướng thiện thắng ác. Đó cũng là quan niệm thiện – ác và tinh thần lạc quan, niềm tin vào chân lí và công bằng vào tâm thức người Việt trong cổ tích.
Năm lần bảy lượt hãm hại Tấm để cướp lấy thành quả của Tấm, mẹ con Cám không thể thành công. Thế nhưng, họ vẫn không nhận ra bài học nào. Họ vẫn cố chấp với sự mê muội của chính mình. Hậu quả cuối cùng mà họ phải nhận lấy là hoàn toàn đích đáng. Cám bị dội nước sôi mà chết cùng khát vọng được đẹp hơn chị. Mụ gì ghẻ cũng lăn ra chết trước cái chết của con gái yêu.
Câu chuyện kết thúc có hậu, người tốt như Tấm đã được bảo vệ và đền đáp; kẻ xấu như mẹ con Cám phải nhận hậu quả tương xứng với hành động xấu xa của họ. Đó cũng là mong muốn của nhân gian. Có ý kiến cho rằng Tấm trả thù là hợp lí, là thích đáng. Mẹ con Cám đáng bị trừng trị bằng hình phạt nặng nề như vậy là hợp với lẽ đời. Nhưng có ý kiến không đồng tình, cho rằng hành động ấy trái với bản chất hiền hậu của Tấm.
Theo logic phát triển tính cách của Tấm và quan niệm của người Việt Nam trong cổ tích thì việc trả thù của Tấm là hợp lí. Tấm đã sống bằng trái tim chân thiện, lấy ân báo oán, lấy nghĩa trả thù. Còn mẹ con Cám vì lòng tham mù quáng mà bất chấp lương tri, không chịu hồi tỉnh. Không những giết Tấm, mẹ con Cám còn tiêu diệt tận gốc rễ mọi mầm mống. Đó là hành động man rợ, không còn nhân tính, đáng bị trời tru đất diệt.
Cuối truyện, Tấm đã thấu rõ bản chất của mẹ con Cám. Lúc này cô đã nhân danh cái thiện trừng phạt cái ác. Tấm là nhân vật văn học do nhân dân lao động sáng tạo để thể hiện quan niệm, thái độ của mình về cuộc sống. Tư tưởng cốt lõi mà dân gian muốn gửi đến người nghe (đọc) là: Thiện luôn thắng ác, “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”.
Qua câu chuyện, ta nhận ra hạnh phúc không tồn tại ở đâu đó xa xôi, trừu tượng mà ở ngay trong cõi đời này. Người bình dân xưa không tìm hạnh phúc ở cõi nào khác mà tìm và giữ hạnh phúc thực sự ngây ở nơi trần thế. Xã hội luôn công bằng, ở đó có công lí sẽ luôn được thực hiện. Tức là người lao động chăm chỉ, hiền lành, tốt bụng sẽ được hưởng hạnh phúc; kẻ tham lam, độc ác, giết người sẽ bị trừng trị đích đáng. Trong một thời đoạn nào đó, có thể điều ấy không đúng, nhưng nhìn xa vào dòng thời gian, chân lí ấy là hoàn toàn đúng đắn.
Sức hấp dẫn của câu chuyện còn thể hiện ở cốt truyện li kì. Nhiều yếu tố thần kì trong câu chuyện xuất hiện với nhân vật thần kì (Bụt), vật thần (xương cá bống, gà biết nói, đàn chim sẻ biết nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo). Bản thân nhân vật chính cũng có sự biến hoá thần kì đã tạo nên nét kì ảo hết sức lôi cuốn. Cách xây dựng mâu thuẫn và đẩy xung đột ngày càng tăng tiến mang tính kịch sâu sắc. Hai tuyến nhân vật đối lập cùng tồn tại và song song phát triển. Đó là lối kết cấu quen thuộc đã thành mô típ trong thể loại truyện cổ tích: kiểu nhân vật mồ côi, hoặc nghèo khó, bất hạnh trải qua nhiều khó khăn, hoạn nạn, cuối cùng được hưởng hạnh phúc.
Hơn một câu chuyện cổ, truyện cổ tích Tấm Cám để lại trong người đọc một bài học nhân sinh quý giá. Hãy luôn sống chân thiện và tin tưởng vào tương lai tốt đẹp sẽ đến. Hãy luôn tránh xa cái xấu, cái ác để không phải làm điều sai trái, phải nhân lấy những hậu quả nặng nề. Chớ thấy việc thiện nhỏ mà không làm. Chớ thấy việc ác nhỏ mà làm. Sống hướng đến con người và gìn giữ thiên lương ngay chính trong cuộc sống khắc nghiệt này.
Trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, có lẽ câu chuyện đã để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng mỗi kỷ niệm tuổi thơ chúng ta là câu chuyện Tấm Cám. Nhưng có lẽ, mãi đến tận lúc chúng ta trưởng thành thì mới có thể hiểu hết được những giá trị nhân văn đẹp đẽ mà “Tấm Cá” mang lại.
Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện là mâu thuẫn gay gắt giữa mối quan hệ con chồng- dì ghẻ. Từ xua đến nay, trong dân gian hay có câu cửa miệng:
Mở đầu câu chuyện, tác giả dân gian đã miêu tả rất rõ ràng về thân phận từng người trong gia đình. Rằng Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Cám luôn là người được mẹ đẻ của mình nuông chiều, ăn trắng mặc trơn. Còn Tấm luôn bị mụ dì ghẻ cay nghiệt hành hạ.
Và bất công đầu tiên trong truyện là sự việc Tấm và cám được mụ dì ghẻ sau ra đồng xúc tép, giỏ tép của ai đầy trước sẽ được thưởng một chiếc yếm đào. Bản tính ham chơi, lười biếng nên Cám ta không bắt được con tép nào, trong khi đó giỏ của Tấm lại đầy tép. Vì dở trò gian xảo nên Cám đã đổi được giỏ tép của Tấm chạy về nhà. Còn Tấm khi lên bờ thấy việc đã rồi, hoàn toàn bất lực chỉ biết ngồi khóc nức nở. Lúc này nhân vật ông Bụt bắt đầu xuất hiện, giống như một cơn mưa mát lạnh trên vùng đất quá đỗi khô cằn. Bụt cho Tấm một con cá bống thả giếng nuôi. Hành động mang tính chất lừa bịp của Cám đó cũng châm ngòi cho những loạt hành động có phần dã man hơn của Cám đối với Tấm sau này. Cụ thể là hành động giết thịt con cá Bống và Tấm nuôi dưới giếng bấy lâu nay. Để rồi sau lần đi chăn trâu đồng xa ấy, lúc Tấm gọi bống lên chỉ còn một cục máu nổi lên. Lúc này ông Bụt cũng đã xuất hiện và chỉ cho Tấm những bước tiếp theo. Và có lẽ mâu thuẫn được đẩy lên ở phần cao trào nhất là những chuyển biến ở trong cung. Bây giờ lòng tham vô đáy của Cám và mụ dì ghẻ bắt đầu trỗi dậy. Khi xưa là con cá, giỏ tép, nhưng bây giờ là giết cả mạng người để đạt được mục đích. Lần này đến lượt khác, từ chặt cây cau hãm hại Tấm chết đuối, rồi làm thịt con chim vàng anh mà Tấm hóa thân, chặt cây xoan đào, rồi đốt khung cửi. Tất cả từng chi tiết một miêu tả thật sắc nét sự độc ác và lòng tham lam của mẹ con Cám. Và ở phần hai này chúng ta không còn thấy sự xuất hiện của nhân vật ông Bụt nữa. Sau những âm mưa, những thủ đoạn độc ác của mẹ con Cám, Tấm đều tự thân tự lực hồi sinh. Không được làm Vàng Anh thì cũng làm cây xoan đào, không được làm khung cửi thì hóa thành quả thị thơm lừng. Phải chăng nhà văn dân gian muốn làm rõ lên sức sống mãnh liệt không bao giờ dập được của Tấm. Dù qua bao sóng gió, qua bao thủ đoạn, nhưng sức sống ấy, khát khao sống ấy của Tấm không bao giờ bị dập tắt.
Đoạn văn sử dụng liên tiếp biện pháp tu từ nhân hóa, làm nổi bật được ý đồ của nhà văn, rằng khát vọng mãnh liệt của cái thiện. Cái ác luôn bị dập tắt, bị đè bẹp bởi cái thiện.
Chi tiết gây tranh cãi nhiều nhất của câu chuyện có kẽ là hành động “báo ân, báo oán” của Tấm. Quả là, nếu như chúng ta thoát ra khỏi câu truyện thì hành động trả thù của Tấm thật đáng sợ, nó mâu thuẫn với chính con người của Tâm. Nhưng trước hết, ta phải xét đến thể loại truyện. Đây là một câu truyện cổ tích, nó có đặc trưng là tưởng tượng, hư cấu và có chức năng phản ánh đời sống, ước mơ của nhân dân, đáp ứng nhu cầu nhận thức, thẩm mĩ, giáo dục và giải trí của nhân dân trong những thời kỳ, hoàn cảnh lịch sử khác nhau của xã hội có giai cấp. Điều đó có nghĩa vào thời điểm đó, nhu cầu lớn nhất của con người là khát vọng công bằng trong xã hội: ác giả ác báo. Cho nên hành động trả thù của Tấm là thoả mãn ước nguyện của người lao động, nó mang tính chủ quan của người sáng tác.
Với thông điệp muốn con người sống hướng thiện. Truyện cổ tích tấm cám đã để lại trong lòng bạn đọc ấn tượng về những hình ảnh đẹp đẽ, sức sống vĩnh cửu của cái tốt, cái đẹp và cái thiện những bài học quý giá mà tác giả dân gian muốn gửi gắm.
“Tấm Cám” là truyện cổ tích có vị trí quan trọng trong kho tàng văn học Việt Nam. Tác phẩm kể về cuộc đời và sự đấu tranh cho hạnh phúc của Tấm. Phân tích truyện Tấm Cám, ta còn thấy được những khát vọng công lý, tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của người xưa.
Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Cha mẹ mất sớm, Tấm ở cùng dì ghẻ và người em của mình. Và như dân gian đã có câu:
Tấm sống trong nỗi cơ cực, vất vả và cam chịu. Nàng hiện lên là cô gái hiền lành, thường xuyên bị dì ghẻ và em gái chèn ép. Khi được giao đi xúc tép, Tấm bị Cám lừa trút hết giỏ tép để cướp phần thưởng. Tấm chỉ biết khóc, và Bụt hiện lên, cho nàng chú cá bống bầu bạn. Khi biết được Tấm có cá bống, dì ghẻ lại lừa nàng đi chăn trâu ở xa, còn mình ở nhà giết thịt con cá. Tấm cũng chỉ biết bưng mặt khóc, Bụt hiện lên, dặn nàng tìm xương cá và chôn ở dưới chân giường.
Không chỉ bị bóc lột sức lao động trong cuộc sống thường ngày, Tấm còn bị dì ghẻ chèn ép với những nhu cầu tinh thần bình thường. Khi biết nàng có ý định đi trẩy hội, dì ghẻ trộn thóc với gạo, bắt Tấm nhặt xong mới cho đi. Nàng khóc, Bụt lại sai một đàn chim đến giúp đỡ nàng. Đến khi nàng không có quần áo đẹp, Bụt cũng hiện lên, cho nàng quần áo, khăn, giày và cả xe ngựa. Chính vì thế, nàng mới đánh rơi giày và trở thành hoàng hậu.
Ở nửa đầu câu chuyện, mâu thuẫn giữa các nhân vật xoay quanh những hơn thua vật chất và tinh thần. Tấm bị mẹ con Cám chèn ép, cướp đoạt trắng trợn những thành quả và niềm vui. Và Tấm hiện lên bị động thậm chí có phần nhu nhược, không thể tự giải quyết xung đột mà phải nhờ đến sự giúp đỡ của Bụt. Sự giúp đỡ ấy chính là sự bênh vực của nhân dân với kẻ yếu, với quan niệm “ở hiền gặp lành”.
Thế nhưng càng về sau, sự chủ động tìm kiếm hạnh phúc của Tấm lại càng rõ ràng hơn. Tấm về giỗ cha, bị mẹ con Cám dụ trèo lên cây cau, sau đó chặt gốc cau. Tấm ngã chết, Cám được đưa vào cung thay thế. Sau khi chết, Tấm chết hóa thành chim vàng anh, tíu tít quanh vua. Mẹ con Cám cũng tìm cách giết chim, ngăn cản Tấm ở bên vua. Sau khi hóa kiếp, Tấm biến thành cây xoan đào, tỏa bóng mát cho nhà vua. Mẹ con Cám cũng chặt cây, làm thành khung cửi dệt vải.Tấm lại hóa thành con ác trên khung cửi, trực tiếp tuyên chiến với kẻ thù. Sợ hãi, mẹ con Cám đốt khung cửi, rắc tro bên vệ đường. Khi này, Tấm hóa thành quả thị, ngày ngày chui ra quét dọn, nấu cơm cho bà hàng nước. Sau đó, Tấm gặp lại nhà vua và trở về làm hoàng hậu.
Trở về với vị trí của mình, Tấm tự tay đòi lại công lý cho bản thân. Cả hai mẹ con Cám đều phải trả giá và chết một cách rất thảm khốc. Ở nửa sau, mâu thuẫn xung đột được đẩy lên dữ dội, một mất một còn xoay quanh ngôi vị hoàng hậu giữa Tấm và Cám. Đến đây Tấm đã không còn bị động, chỉ biết khóc và phải nhờ Bụt giúp đỡ nữa. Nàng luôn ở trong thế chủ động, đấu tranh mạnh mẽ, quyết liệt. Những lần hóa thân của Tấm cho thấy sự chiến đấu không khoan nhượng, sức sống mãnh liệt không thể tiêu diệt của cái thiện trước những điều xấu xa, tàn ác.
Mặc dù vậy, mâu thuẫn vẫn được giải quyết theo hướng cái thiện sẽ thắng cái ác. Chỉ là cách thức khác nhau và sự chủ động tìm kiếm hạnh phúc, đấu tranh vì công lý thuộc về chính bản thân mình. Đó như một lời nhắn nhủ của tác giả dân gian đến với mỗi người, phải biết đấu tranh cho hạnh phúc của mình, không thể chỉ ngồi trông chờ vào sự giúp đỡ của người khác. Và chỉ có đứng lên đấu tranh, hạnh phúc đó mới lâu bền và vững chãi.
Những mâu thuẫn liên tiếp nhau, không có mở đầu mà dường như đã xuất hiện từ rất lâu rồi. Chúng bắt nguồn từ mâu thuẫn trong gia đình phụ hệ: dì ghẻ – con chồng. Mẹ mất sớm, cha đi bước nữa, Tấm phải sống chung với dì ghẻ và em cùng cha khác mẹ. Vì thế, xung đột không thể tránh khỏi. Đây là mâu thuẫn phổ biến trong xã hội lúc bấy giờ. Nó thể hiện được những nhức nhối còn đang tiếp diễn. Nếu chế độ phụ hệ chưa được xóa bỏ, những đứa trẻ như Tấm sẽ vẫn còn tồn tại. Và không phải ai cũng có thể mạnh mẽ đứng lên đấu tranh cho bản thân.
Bên cạnh đó, xung đột xảy ra còn bởi sự đối nghịch giữa cái thiện và cái ác. Trong đó, Tấm là đại diện cho các nhân vật ở tuyến thiện. Nàng hiện lên với những nét tính cách: hiền lành, nhu mì. Nàng phải chịu nhiều đau khổ, chèn ép nhưng lại luôn nhận được sự giúp đỡ. Đồng thời bản thân Tấm đã dám đứng lên chống lại cái ác, giành hạnh phúc cho mình. Ngược lại, mẹ con Cám lười biếng, nhẫn tâm, độc ác, luôn tìm cách hãm hại Tấm. Mâu thuẫn thiện – ác luôn tồn tại trong xã hội, và cái thiện cần mạnh mẽ, dũng cảm để có thể loại bỏ cái ác, giúp xã hội hạnh phúc hơn.
Qua đó, tác giả dân gian thể hiện quan niệm “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”. Con người sẽ được đền đáp xứng đáng khi biết khao khát và đấu tranh. Hơn hết, nó còn biểu hiện cho ước mơ về một xã hội công bằng, về một cuộc sống viên mãn, hạnh phúc, không còn điều xấu xa của nhân dân.
Qua đây chúng ta thấy hành động trả thù của Tấm ở cuối truyện đã gây ra nhiều ý kiến trái chiều. Tấm sau khi trải qua những kiếp nạn đã trở về cung, làm hoàng hậu. Không những thế, nàng còn trẻ đẹp và mặn mà hơn trước. Điều này đã khiến Cám ngỡ ngàng, khát khao được đẹp như chị. Tấm đã bày cách cho Cám xuống hố, dội nước sôi cho trắng đẹp. Cám chết, Tấm làm thành mắm và gửi cho mẹ Cám. Dì ghẻ ăn lọ mắm làm từ thịt con gái thì kinh khiếp, lăn đùng ra chết. Kết cục này, soi chiếu theo bối cảnh và quan niệm xưa kia, là một kết cục vẹn toàn. Hành động báo thù của Tấm phù hợp với quá trình trưởng thành trong đấu tranh của nàng. Tấm từ cô gái hiền lành cam chịu, yếu đuối, giờ đây đã trở nên mạnh mẽ, quyết liệt. Nàng dám chống lại cái ác và cuối cùng ra tay trừng phạt cái ác để giành hạnh phúc cho bản thân.
Đồng thời, nó cũng phù hợp với quan niệm của nhân dân: “Ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”. Theo quan niệm xưa, cái ác phải được trừng trị bởi bạo lực, và phải nhận kết cục xứng đáng với những gì đã gây ra. Bởi lẽ nếu càng nhân nhượng, cái ác sẽ càng lấn tới, chèn ép những điều tốt đẹp của cuộc đời. Do vậy, sự báo thù của Tấm là hợp lý, trọn vẹn.
Với cách xây dựng mâu thuẫn độc đáo, mô típ truyền thống và các yếu tố thần kỳ, “Tấm Cám” là một câu chuyện cổ tích giàu ý nghĩa nhân văn và bài học sâu sắc. Truyện là tiếng nói và khát vọng của nhân dân về một cuộc sống mơ ước. Mà ở đó, cái thiện sẽ được đền đáp, công lý được thực thi và hạnh phúc sẽ đến với những người xứng đáng. Những câu chuyện như “Tấm Cám”, “Sọ Dừa”, “Thạch Sanh”,… sẽ là những hành trang quý báu, đi theo mỗi người đến suốt cuộc đời. Để giúp chúng ta luôn hướng thiện, biết ước mơ và đấu tranh cho hạnh phúc của chính mình.
Văn Mẫu Lớp 7: Cảm Nghĩ Về Mùa Xuân 2 Dàn Ý &Amp; 21 Bài Văn Mẫu Lớp 7
Cảm nghĩ về mùa xuân
Tài liệu gồm 2 dàn ý chi tiết và 21 bài văn mẫu hay nhất dành cho học sinh lớp 7, cung cấp những mẫu bài văn cảm nghĩ hay nhất. Mời tham khảo nội dung chi tiết ngay bên dưới.
1. Mở bài
Một năm có bốn mùa: xuân, hạ, thu và đông.
Cảm nhận chung về mùa xuân.
2. Thân bài
– Mùa xuân của vạn vật
Xuân đến như một liều thuốc trường sinh làm vạn vật trở nên tươi tốt.
Những ngày héo úa, lạnh lẽo của mùa đông dần qua đi nhanh chóng mà thay vào đó là mốt màu xanh của cây cối, thiên nhiên. (Miêu tả sự thay đổi ấy)
– Mùa xuân của đất trời:
Trời bắt đầu hửng ấm khi cận Tết.
Không còn cái khô hanh và những cơn mưa xối xả ngày đêm nữa, mà mùa xuân đến một cách dịu dàng, thuỳ mị, ban cho nhân gian những tia nắng ấm áp, thật đáng yêu.
Nàng tiên xuân còn mang đến cho ta những cơn mưa ngọt ngào, hay nói cách khác là mưa xuân.
– Mùa xuân của tình người
Ở các bến xe, người ra kẻ vào tấp nập. Ai ai cũng hối hả, háo hức chờ mong về lại quê hương của mình.
Chợ bắt đầu bày bán hàng hoá…
Ai cũng xí xóa cho nhau những chuyện không vui của năm cũ. Ngày xuân, mặt ai cũng hớn hở, tràn trề hạnh phúc, luôn nở nụ cười yêu thương
– Mùa xuân của phong tục gia đình
Tối ba mươi Tết, nhà nhà sum họp bên mâm cơm ấm áp, bên bàn thờ tổ tiên khói hương nghi ngút
Nấu bánh chưng, bánh nếp đón Tết.
3. Kết bài
Nêu cảm nghĩ về mùa xuân.
1. Mở bài
Mùa xuân khởi đầu của một năm, mùa con người đoàn tụ.
Mùa xuân là mùa cây cối sinh sôi, vạn vật phát triển.
2. Thân bài
– Sự thay đổi của đất trời.
– Sự thay đổi của cây cối, muôn loài.
– Hoạt động của con người
Đoàn tụ (trở về quê hương sau học tập, làm việc)
Mua sắm Tết như quần áo, trang trí nhà cửa, cây cảnh…
– Sự biến chuyển tình cảm
Người lớn vui vẻ, phấn khởi khi xuân về.
Trẻ em có lì xì, quần áo mới hân hoan.
Người già: thêm tuổi mới và được con cháu mừng thọ.
3. Kết bài
Mùa xuân khởi đầu với nhiều điều tốt đẹp, vạn sự như ý.
Mùa xuân mọi người sức khỏe, bình an, mong đất nước luôn phát triển phồn thịnh.
Mỗi mùa đều có một nét đẹp riêng, mang nét đặc trưng của từng nơi. Nhưng có lẽ, với em, mùa xuân là đẹp hơn cả. Bởi mùa xuân đã đem đến cho em thật nhiều cảm xúc.
Mùa xuân về đã xua tan đi cái lạnh lẽo, âm u của mùa đông. Mặt trời thức giấc, bừng lên ánh nắng để sưởi ấm vạn vật. Cây cối đã bắt đầu đâm chồi non. Phía xa xa là cánh đồng, những hàng lúa xanh mướt đang đung đưa theo gió như hát khúc ca chào đón xuân về. Nước sông cũng trong và xanh hơn. Trên bầu trời, những cánh én đang bay lượn. Chim én về báo hiệu mùa xuân về. Quả thật, cảnh vật mùa xuân tràn ngập sức sống khiến lòng người say mê.
Ngày xuân rộn ràng khiến con người cũng trở nên vui tươi hơn. Xuân đến là Tết về. Không khí hân hoan đường như bao trùm khắp mọi nơi. Ai cũng tất bật chuẩn bị đón Tết. Em nhớ nhất kỉ niệm về những ngày cuối năm. Cả gia đình cùng nhau dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, gọn gàng. Mẹ đi chợ để mua sắm đồ dùng cho dịp Tết. Còn bố thì đi mua cây đào, cây quất về chơi Tết. Chiều hai tám Tết, cả nhà cùng nhau gói bánh chưng. Tối đó, em với anh trai còn được ngồi trông nồi bánh. Khói bếp cùng với chút se lạnh cuối mùa khiến lòng em dâng lên một cảm giác thật kì lạ. Mỗi dịp Tết đến, nhà em lại về quê thăm ông bà và họ hàng. Em được người lớn mừng tuổi cho những phong bao lì xì rực rỡ kèm với lời chúc tốt đẹp. Điều đó khiến em cảm thấy rất thích thú và sung sướng. Mùa xuân cũng là lúc nhiều lễ hội cũng được tổ chức. Các hoạt động tế lễ truyền thống được tổ chức, cùng với nhiều trò chơi dân gian đã thu hút nhiều người đến tham gia ở khắp các địa phương. Không khí rộn ràng bao trùm khắp các làng quê Việt Nam.
Mùa xuân là mùa của yêu thương, sum vầy. Mùa xuân là mùa của sự sống, của niềm hạnh phúc. Em yêu biết bao mùa xuân – mùa đẹp nhất trong năm.
Đông qua là xuân tới. Khi từng đàn chim én chao lượn trên bầu trời mang thông điệp báo hiệu mùa xuân đang về. Không giống như mùa đông lạnh giá, mùa hè chói chang ánh nắng hay mùa thu buồn với những chiếc lá vàng rơi, mùa xuân mang tới cho chúng ta một không khí ấm áp, dịu hiền.
Cái thời điểm kỳ diệu của mùa xuân khiến tâm hồn người ta bừng lên sự sống mới. Mùa xuân được ví như một nàng chúa xuân xinh đẹp mà Thượng Đế đã ban tặng cho con người. Cảnh xuân được tô điểm bởi những loài hoa sặc sỡ và đặc biệt không thể thiếu là cành mai, bông đào. Nó đã trở thành biểu tượng đặc sắc nhất trong những ngày tết hàng năm.
Xuân về, chim muôn nơi cũng từ khắp nơi bay về hưởng sắc cảnh mùa xuân, mùa hội tụ sau một thời kỳ trú đông dài. Mùa xuân – mùa của sự sinh sôi. Mùa đem tới sức sống mới cho vạn vật trong đó cũng có cả con người. Hơi ấm của mùa xuân lan tỏa khắp nơi, len qua từng chiếc lá, cành cây, ngọn cỏ. Hơi xuân lướt nhẹ nhàng qua từng con phố, bay trên những con đường, hòa vào dòng người hối hả một cách chậm rãi để người người cảm nhận được mùa xuân đang về. Hơi ấm của mùa xuân lan tỏa khắp nơi, vạn vật như bừng tỉnh sau những đêm dài lạnh lẽo của mùa đông, hít từng hơi nhỏ thấm sâu vào đường gân thớ mạch, đánh thức những gì còn trong cơn “ngái ngủ”.
Mùa xuân – mùa sinh sôi biểu hiện nhất ở cây cối. Làn mưa xuân nhè nhẹ, lất phất bay như những bàn tay mềm mại, âu yếm vuốt ve những mầm non mới nhú giúp chúng mau lớn nhanh để chuẩn bị đón những tia nắng đầu năm. Khắp nơi nơi đều được phủ một lớp màu đặc sắc của tất cả những loài hoa. Dường như mùa xuân cũng là mùa thi “sắc” của hoa. Bông nào cũng cố gắng vươn mình trong nắng mai để khoe sắc. Trên núi rừng xa xôi, hoa mơ đang nở rộ trắng khắp một vùng Tây Bắc rộng lớn, hoa đào tô thắm vùng Đông Bắc còn hoa mai hòa mình vào ánh nắng vàng rực rỡ của Miền Nam. Trên khắp các làng quê, đường phố cây cối đều khoác trên mình một lớp chồi biếc xanh tươi mang đầy nhựa sống.
Con người cũng không nằm ngoài lẽ tự nhiên ấy. Với tất cả dân tộc trên trái đất, bất kể khác biệt về văn hóa, thì mùa xuân là mùa của tình yêu, mùa gửi gắm những yêu thương tới mọi người. Xuân về cùng với quất hồng, đào thắm và những cánh én xôn xao, ta nghe tiếng khèn gọi bạn tình ở trên vùng núi cao, thấy những ánh mắt lúng liếng trao duyên ở các đám hội đồng bằng. Và đó đây là tiếng cười rộn rã của những đám rước người yêu thương về sống chung một nhà.
Cơn gió lạnh thổi qua, những chiếc lá rập rờn theo, vài chiếc rơi lả tả xuống gốc. Chợt như thấy bước chân của nàng xuân đang về, cũng ngập ngừng e ấp, cũng thẹn thò, rụt rè. Chúng chưa đủ làm nên một mùa xuân ngập tràn hương sắc nhưng cũng đủ để tâm hồn người xao động, chờ mong.
Trong bốn mùa, mùa xuân có thể nói là một mùa đẹp nhất, không phải chỉ vì những nét yêu kiều diễm lệ của nó như cây lá xanh tươi, trăm hoa đua nở, chim chóc véo von, mà còn cả vì cái khí tiết ôn hòa và ấm áp.
Mùa xuân mới đang dần tới, sắc xuân rực rỡ trên những phố phường, cây cỏ quấn với gió xuân, lòng ta tràn ngập niềm vui sướng trong sự thanh bình, chợt lặng lại, bồi hồi nghe những lời ca chân thành của người nhạc sĩ đa tài luôn tin vào những giá trị chân thật của cuộc sống con người. Một điệu Valse nhẹ nhàng, êm ái thật thích hợp khi trời đất đang bẽn lẽn khoác lên mình chiếc áo rực rỡ của mùa xuân.
Mùa xuân dặt dìu theo con én lượn về, mênh mang và mơ màng. Tưởng chừng như xuân thật đơn giản với tiếng gà gáy xa xa khi những giọt nắng trưa vàng cùng những sợi khói bềnh bồng nhè nhẹ qua vòm cây, kẽ lá xong lại có sức biểu cảm, lay động lòng người. Người người hớn hở trước cảnh mùa xuân tươi.
Mùa xuân là mùa của đất trời giao hòa, mùa của hy vọng và ước mơ, mùa của mùa màng no ấm và sum họp. Mùa xuân là mùa của sức sống mãnh liệt, mùa để cây lá đâm chồi nảy lộc, mùa của những mầm non xanh mơn mởn thoát khỏi lớp vỏ bọc xù xì để vươn vai đón chào những tia nắng ấm áp diệu kì. Mùa xuân mang lại cho con người thêm một tuổi. Đối với thiếu nhi mùa xuân là mùa của sự trưởng thành về thể chất lẫn tâm hồn. Mùa xuân là sự mở đầu cho một năm mới, một dự định mới, một tương lai mới. Mùa xuân là mùa của sự đoàn tụ gia đình.
Ai có tâm hồn yêu cái đẹp chẳng từng một lần thấy rung động trước vẻ đẹp của mùa xuân. Xuân tới, hồi sinh sức sống cho muôn loài, xuân tươi vui từ cái nắng vàng hửng lên. Từ cái lá cây xanh biếc, từ chồi non mơn mởn, từ cơn mưa phùn lất phất, từ những loài hoa đua nhau khoe sắc đến màu nâu mỡ màng của đất, cái màu nâu giản dị mộc mạc ấy nhưng lại nuôi sống muôn loài.
Tôi thích ngắm nhìn những cành hoa mai trong một ngày nắng, tiết xuân ấm áp và trong trẻo. Khi ấy vừa vui sướng hạnh phúc mà trong lòng lại thấy nuối tiếc một điều gì đó, chỉ sợ xuân sẽ qua và ngày xanh của mình cũng đang dần trôi đi mất không gì có thể níu giữ nổi và không tài nào có thể lấy lại được. Cho nên cứ mãi phân vân giữa niềm vui và nỗi buồn. Tất cả là sự lưng chừng, một nửa.
Mùa xuân còn đem đến cho con người sự gần gũi với thiên nhiên, được cảm nhận và hòa mình vào sự thay đổi của sự giao mùa. Chính những sản vật được tạo hóa ban tặng cho mùa xuân làm cho chúng ta càng phải biết nâng niu và trân trọng nó.
Hoa mai vàng đã nở báo hiệu cho mùa xuân cho mùa xuân đã về:
Khi nghe được bài hát của ca sĩ Thanh Thảo thì trong em tràn về bao nhiêu niềm vui và rộn ràng khi mùa xuân đến.
Ngày xuân đem lại cho em nhiều điều thích thú gợi nhớ. Mùa xuân thường bắt đầu từ những đóa pháo hoa đêm giao thừa, đó là thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới. Ai cũng ngước nhìn những tràng pháo hoa sáng lung linh đủ sắc màu tung ra như những ngôi sao bé nhỏ nhảy nhót tung tăng vui đùa. Mọi người cầu khẩn chúc nhau.
Khoảng tầm 6 đến 7 giờ sáng, mặt trời bắt đầu chiếu những tia sáng yếu ớt đầu tiên xuống vạn vật. Bầu trời dường như cao hơn. Những cánh én chao liệng trên bầu trời cùng với điệu nhạc du dương.
Mùa xuân là mùa của trăm hoa đua nở, cây cối đâm chồi nảy lộc, tất cả đều khoác lên chiếc áo màu xanh mơn mởn. Dường như chúng được nàng đông ủ ấm sau một thời gian dài để trồi ra những chiếc lá li ti mạnh mẽ, nhà nào cũng có những cành mai, chậu cúc để tô thêm cho một mùa xuân tràn trề hạnh phúc.
Mùa xuân là mùa mà các bạn trẻ thiếu nhi thích nhất, được nhận những bao lì xì, được mặc những bộ quần áo đẹp, được ba mẹ chở về quê chơi. Và cả những phút giây gia đình đoàn tụ. Tiếng cười đùa, tiếng trò chuyện, tiếng chúc tụng… mà mỗi người dành cho nhau.
Mùa xuân năm nay đã để lại cho em nhiều kỉ niệm khó quên. Em sẽ nhớ mãi. Em ước gì mình là cánh chim có thể bay tung tăng trên bầu trời ngày xuân để cất tiếng hát “Tết, tết, tết, tết đến rồi…”. Em cũng mong rằng những tháng ngày buồn phiền của năm cũ sẽ vơi hết đi và bắt đầu cho một năm mới yên lành và hạnh phúc.
Mùa xuân không lạnh lẽo, giá rét như mùa đông, cũng không nóng bức chói chang như mùa hè, cũng không buồn rầu khô hanh như mùa thu. Ấm áp và ẩm ướt là thời tiết của mùa xuân. Khi chim én báo hiệu xuân về, cây cối thi nhau đâm chồi nảy lộc, rộ lên những sắc hoa tươi thắm, rực rỡ.
Xuân về thì tất nhiên không thể thiếu sắc hồng của hoa đào, sắc vàng của hoa mai, hương quất nồng nàn tỏa đi khắp nơi. Mọi người đều háo hức đón chào một năm mới, được đón một cái Tết cổ truyền. Ai cũng tấp nập sửa sang lại nhà cửa và mua sắm đồ đạc mới để đón Tết. Dòng người tấp nập, hối hả trên từng con đường, từng khu chợ.
Đối với những người phải đi làm xa nhà, họ thường gửi tới cho gia đình mình những lời chúc ngọt ngào nhất, kèm theo những món quà đậm tình cảm gia đình. Thăm hỏi quê nhà là một điều tất yếu mà mỗi chúng ta phải làm khi Tết đến. Chúng ta được đi lên chùa và cầu mong hạnh phúc đến với mình và người thân.
Nhưng sự quây quần, ấm cúng mới chính là ý nghĩa thực sự của Tết. Cả nhà được quây quần bên đĩa bánh chưng và bữa ăn đạm bạc, cùng nhau xem những bộ phim, nghe những bài hát về mùa xuân, mừng tuổi cho nhau và trao những lời chúc tốt đẹp nhất. mùa xuân được ví như một nàng công chúa xinh đẹp mà thượng đế đã ban cho nhân loại.
Mùa xuân tượng trưng cho sự hạnh phúc, ấm cúng của mỗi gia đình. Em rất yêu mùa xuân, mùa để mọi người được hưởng niềm hạnh phúc, sự ấm áp khi ở bên nhau.
Khi mùa đông đi qua, cũng là lúc mùa xuân trở về. Trên bầu trời từng đàn chim én nhẹ nhàng tung bay chao lượn theo những đám mây, làn gió như mang một tin vui báo hiệu một thông điệp vô cùng quan trọng tới mọi người là “Mùa xuân đã về”.
Không còn cái không khí lạnh giá rét buốt của mùa đông nữa, cũng chẳng còn những tia nắng chói chang, gay gắt như nắng hè, không man mác gợi buồn vì những chiếc lá vàng rơi như mùa thu, mùa xuân mang tới cho con người sức sống, sự ấm áp dịu dàng. Chính cái thời điểm diệu kỳ khi đất trời giao thoa giữa mùa đông và mùa xuân đó khiến cho tâm hồn con người chúng ta bừng lên một sức sống mới vô cùng mạnh mẽ, mãnh liệt. Mọi thứ như căng tràn nhựa sống, hừng hực hơi xuân. Men say của mùa xuân nhưng nhấn chìm chúng ta trong hương sắc của nó. Chẳng thế mà, mùa xuân được người ta ví von là nàng công chúa kiều diễm, xinh đẹp mà thượng đế tối cao ban tặng cho muôn loài. Nó thật sự là món quà vô cùng quý giá, không gì có thể mua được.
Khi xuân tới, tô điểm cho những cảnh sắc tự nhiên những bông hoa sặc sỡ thi nhau khoe thắm, những cành mai vàng rực rỡ, những bông đào phai, báo hiệu tết đến xuân về nhà nhà ấm no hạnh phúc. Những bông hoa xinh xắn đó đã trở thành biểu tượng không thể thiếu trong mỗi gia đình, khi mùa xuân tới. Nó báo hiệu cuộc sống đoàn tụ sung túc, quây quần bên nhau. Những người con tha phương, dù làm ăn ở đâu cũng hướng về gia đình, cha mẹ của mình mỗi dịp tết đến, xuân về.
Khi mùa xuân về, những cánh chim cùng khắp bốn phương tung bay báo hiệu cảnh sắc mùa xuân vô cùng ấm áp chúng cùng nhau bay về nơi mình ra đi, sau một kỳ tránh rét nơi phương Nam xa xôi, giờ đây chúng nô nức kéo nhau về lại quê hương của mình với bao niềm vui của ngày đoàn viên. Mùa xuân chính là mùa của sự sinh sôi nảy nở, khi hương xuân mang sức sống cho tất cả các loài cỏ cây, hoa lá, cho vạn vật và cho chính cả con người chúng ta. Chúng tạo cho chúng ta một sức sống mới, một không khí, sức sống mới mãnh liệt tràn đầy nhiệt huyết, ý tưởng mới cho một tương lai mới nhiều sáng tạo hơn.
Trong không khí mùa xuân, chúng ta hít hà được hương xuân nhè nhẹ trên những cánh đồng, trên từng con phố góc nhà, hòa vào dòng người hối hả mưu sinh, chậm rãi trên những con đường Cổ Ngư gợi một màu hoài niệm. Hơi ấm của không khí mùa xuân lan tỏa khắp không gian bao la, làm cho vạn vật như chợt bừng tỉnh sau một giấc ngủ đông dài và buốt giá. Hương của mùa xuân thấm qua từng làn áo mỏng của con người gợi lên chút se se, nhưng lại vô cùng thích thú. Những cánh hoa bừng tỉnh giấc lấy hết sức mình để tỏa hương trong không khí mùa xuân nồng nàn dịu ngọt. Mùa xuân đã về trên những đám cây khô, tưởng như đã chết kia bất chợt “chồi” lên, nảy mầm, những cành lộc non tơ xanh biếc, làn mưa xuân bay lất phất nhè nhẹ tưới cho những lộc non ngày một lớn nhanh tạo thành một màu xanh vô cùng quyến rũ làm say đắm lòng người.
Mùa xuân cũng là mùa thi sắc của những loài hoa, trên khắp núi rừng xa xôi, nơi biên giới hải đảo, nơi núi non Tây Bắc hay Đông Bắc thì những cánh rừng mơ, rừng đào vẫn khoe sắc một cách rực rỡ. Chúng tạo thành một không khí mùa xuân vô cùng tươi đẹp, quyến rũ đắm say lòng người. Trên khắp các cánh đồng làng quê cây cỏ đều khoác lên mình một chiếc áo mới, với những màu xanh tươi non đầy sức sống.
Chính những sản vật tuyệt vời mà đất trời ban tặng cho mùa xuân, làm cho chúng ta luôn phải biết nâng niu trân trọng món quà vô giá này. Một mùa xuân nữa lại đang tới gần chúng ta hãy chuẩn bị những gì tốt đẹp nhất để đón chào nó. Những người con phương xa hãy thu xếp công việc để trở về bên gia đình thân yêu của mình, cùng nhau đón chào một mùa xuân ấm áp vui vẻ, đón một cái Tết ấm áp, thiêng liêng bên những người thân yêu nhất.
Khí hậu miền Bắc nước ta chia làm bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Mùa nào cũng có những nét đẹp riêng nhưng mùa xuân lại có nhiều điều kỳ thú nhất.
Theo quy luật tuần hoàn của tạo hóa, cứ đông tàn thì xuân đến. Trước tết khoảng nửa tháng, thời tiết bắt đầu thay đổi. Những trận mưa phùn lạnh lẽo thưa dần rồi ngớt hẳn. Bầu trời không còn xám xịt mà đã sáng tươi hơn. Những dải mây trắng hoặc xanh lơ màu nước biển lãng đãng trôi. Không khí ấm áp làm cho con người cùng vạn vật lai trào dâng nhựa sống, náo nức đón đợi mùa xuân.
Giữa không trung, chim én từng đàn vun vút lao liệng, báo hiệu mùa xuân sắp bắt đầu. Nếu để ý một chút, ta sẽ thấy trên đường những cành lộc vừng, cơm nguội, bàng… đã rụng hết lá ven đường, vô số mầm nhỏ xíu đang cựa quậy, muốn xuyên thủng lớp vỏ xù xì, thô ráp để nhú ra những búp non, lộc non mơn mởn trong mưa xuân.
Những ngày giáp tết ở Hà Nội rộn ràng và náo nức lạ thường. Niềm vui rạng ngời lên trong ánh mắt trẻ thơ, trong dáng điệu tấp nập của người đi sắm Tết, trong sự thay đổi nhanh chóng của gương mặt phố phường. Nhà cửa được trang hoàng lộng lẫy bằng sắc màu rực rỡ của đèn, hoa, của những tấm băng rôn đỏ với dòng chữ vàng: “Chúc mừng năm mới” có vẽ những cánh đào, cánh mai, hay những chiếc đèn lồng xinh xắn.
Các chợ lớn nhỏ trong thành phố đều đông nghịt người. Chợ Đồng Xuân, chợ Ngọc Hà, chợ Bưởi, chợ Mới, chợ Ô Cầu Dền… người mua, kẻ bán chen chúc, sôi đông, ồn ào. Chợ Tết có một sức hấp dẫn ghê gớm. Người ta đi chợ Tết để được đắm mình vào cái không khí đặc biệt một năm chỉ có một lần, để sắm Tết và để xem thiên hạ đua nhau sắm Tết. Hơn thế nữa, đi chợ Tết để được thỏa thích ngắm nhìn bao nhiêu của ngon vật lạ của quê hương, đất nước.
Cùng với việc sắm Tết, người Hà Nội luôn nghĩ đến hoa. Có thể nói là người Hà Nội yêu hoa và có thú chơi hoa có từ lâu đời. Từ ngày hai tám cho đến sáng ba mươi Tết, các ngả đường từ nội ô ra ngoại thành, dòng người và xe nườm nượp nối nhau không dứt. Họ tìm đến các làng hoa nổi tiếng như Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Nhật Tân, Nghi Tàm để mua đào, mua quất và những loại hoa khác. Trong ba ngày Tết bất luận giàu hay nghèo, nhà nào cũng có một chậu cúc, một cành đào, một bình hồng nhung hoặc mấy cây hải đường hoa nở đỏ chói cho vui cửa vui nhà, làm thêm vẻ tưng bừng của Tết. Đứng trước những vườn đào, vườn quất và những khu vườn có hàng trăm loài hoa đang nhởn nhơ đón nhận làn mưa xuân tươi mát, ta sẽ thấy trong tâm hồn dâng lên một niềm hạnh phúc vô bờ. Trái tim ta hân hoan cất lời cảm ơn Tạo hóa đã ban cho mặt đất một sức sống bất diệt và hào phóng tặng cho con người những món quà vô giá từ thiên nhiên muôn màu muôn sắc.
Trong dịp Tết, còn gì thú vị bằng được cùng với những người thân yêu dạo chơi dưới mưa xuân êm ái giăng giăng đầy trời một màn nước li ti, mơ hồ như sương như khói. Mưa xuân làm cho cảnh vật trở nên huyền ảo và thơ mộng. Hồ Gươm, cầu Thê Húc, đền Ngọc Sơn, Tháp Rùa hồ Tây, hồ Trúc Bạch với chùa Trấn Quốc và con đường Thanh Niên chạy lên phía Nghi Tàm cũng những hàng cây mái phố nhấp nhô đều nhạt nhòa, thấp thoáng trong mưa xuân.
Đầu xuân, trời đất vẫn còn se se lạnh. Làn nắng xuân mới hé chỉ đủ làm ửng hồng đôi má trẻ thơ và lóng lánh những giọt sương đọng trên lá cây hoặc vạt cỏ xanh mướt ven đường. Ra giêng ngày rộng tháng dài, người người nô nức rủ nhau đi chơi xuân, đi chùa hay dự lễ hội ở những vùng lân cận để cầu một năm mới an lành.
Đẹp biết mấy là mùa xuân. Mùa xuân đã đem đến cho con người những khát vọng ấm no, hạnh phúc của người dân.
Những cánh én bay lượn trên bầu trời xanh báo hiệu mùa xuân đầy sức sống đang tới. Không như mùa xuân đông lạnh giá rét, mùa hè nắng chói chang, mùa thu buồn với những chiếc lá vàng rơi, mùa xuân mang lại cho vạn vật một cảm giác nhẹ nhàng, ấm áp. Mùa xuân là món quà diệu kỳ mà thiên nhiên đã ban tặng cho vạn vật. Đó là một món quà vô giá. Tô điểm cho cảnh đẹp mùa xuân là những loài hoa sặc sỡ và đặc biệt không thể thiếu là cành mai, bông đào tươi thắm, những thứ đã gắn liền với mùa xuân cùng Tết đất nước Việt Nam ta.
Xuân về trên những ngọn cây đầu cỏ, từng góc phố thân quen, chim muông cũng về ca lên những bản nhạc vui tươi góp vui cùng với sự thay đổi thần kỳ của khoảnh khắc giao mùa. Hơi xuân như len lỏi vào từng lòng người. Năm hết, tết đến, làn mưa lất phất hòa vào dòng người đang hối hả về với quê hương thân thuộc. Mùa xuân – mùa sinh sôi biểu hiện nhất ở cây cối. Tất cả cây cối đều khoác lên mình những chồi non xanh mơn mởn.
Đó cũng là mùa của hy vọng và ước mơ của mọi người. Mùa của sự sum họp, gia đình đoàn viên. Mùa xuân mang lại cho mỗi người thêm một tuổi. Chính vì thế mỗi lần Tết đến là nhà nhà lại chuẩn bị lì xì đỏ để mừng tuổi cho trẻ em. Ai có tâm hồn yêu cái đẹp chẳng từng rung động trước sắc xuân. Xuân tới, hồi sinh sức sống cho muôn loài, xuân tươi vui từ cái nắng hửng lên, cho đến từng bông hoa ngọn cỏ. Tôi rất thích ngắm vườn cây của ông trong tiết xuân trong trẻo. Nhưng lúc đó, ông lại kể cho tôi nghe về những ngày tết khi xưa với nhiều kỉ niệm đẹp, thật giản dị mà ấm cúng.
Dường như hai chữ “mùa xuân” đã gắn liền với sự đổi thay, đem đến cho mọi người cảm giác hòa mình vào thiên nhiên. Xuân còn mang ý nghĩa là may mắn, hạnh phúc ngập tràn. Tôi yêu mùa xuân biết bao.
Có thể nói, trong bốn mùa, mùa xuân là mùa đẹp nhất. Đó là mùa mà ai cũng mong chờ. Đó cũng là mùa gợi cho con người những cảm nhận về giây phút đoàn tụ bên gia đình.
Cơn gió lạnh lẽo thổi qua, những chiếc lá rơi lả tả dưới gốc. Nhịp bước rộn ràng nhưng e thẹn của nàng xuân đang về trên đường phố. Những dãy nhà xinh xinh, phố phường như tràn ngập sắc xuân. Ánh nắng chói lọi lọt qua từng khe lá chiếu xuống mặt đất làm nổi bật nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt mỗi người. Đằng xa, một họa sĩ thả hồn theo điệu nhạc valse nhẹ nhàng tô lên những nét vẽ mềm mại, uyển chuyển của cảnh vật mùa xuân. Bỗng đâu đó vang lên tiếng hát trong trẻo, cao vút. Thì ra là cô ca sĩ trẻ tràn đầy năng lượng, tin tưởng vào mùa xuân mới. Giọng hát ấy như hòa vào tiếng hót ngân nga của bầy chim non. Những chồi non mới mọc như đung đưa theo điệu nhạc của chị gió. Chị hoa hồng vẫn kiêu sa, sang chảnh như ngày nào. Chị hoa cúc xinh đẹp tô điểm cho vạn vật thêm tươi mới. Nhưng rực rỡ nhất phải kể đến chị hoa mai, hoa đào. Chị hoa mai khoác lên mình bộ váy màu vàng yêu kiều. Còn hoa đào thì xúng xính trong bộ cánh màu hồng dịu dàng.
Về những miền quê, không khí tết cũng tràn ngập. Nó len lách vào những con ngõ nhỏ, chạy vào những mái nhà lụp xụp, mang niềm vui đến cho mọi người. Những người dân quanh năm vất vả, một nắng hai sương nay được nghỉ ngơi, vui vẻ chuyện trò với mọi người. Trải dài khắp con phố là những nồi bánh chưng đang chờ chín, đầy ắp niềm vui, niềm hạnh phúc của người dân. Trẻ em được mua quần áo mới, tay cầm cành đào chạy nhảy, ca hát.
Trên đường phố, tiếng cười nói, tiếng bước chân vang lên nhộn nhịp. Thỉnh thoảng lại có vài cô bé, cậu bé tay cầm bao lì xì đỏ thắm tung tăng chạy trên vỉa hè. Những lời chúc vang lên thật đều đều, thật ấm áp. Thế là một năm mới lại đến rồi, mang theo bao niềm tin, niềm hy vọng. Mùa xuân cuốn theo hòa bình đến Việt Nam.
Mùa xuân của tôi – với những vẻ đẹp rất riêng biệt. Tôi yêu mùa xuân với thứ tình yêu chân thành và duy nhất.
Trong thơ văn ngàn đời, cảnh sắc thiên nhiên luôn là đề tài. Tuy cũ nhưng không bao giờ nhàm chán – đối với các thi nhân. Và ắt hẳn, mùa xuân cũng là một ví dụ điển hình như thế. Mùa xuân mang vẻ đẹp rất đỗi dịu dàng, khiến nhà thơ Hàn Mặc Tử cũng phải thốt lên:
Mùa xuân là mùa bắt đầu của đất trời. Không còn cảnh giá buốt lạnh lẽo như mùa đông. Cũng không có những tia nắng chói chang nóng bức như mùa hè. Mùa xuân là một sự kết hợp hoàn hảo và hài hòa giữa các yếu tố: chút gió dìu dịu còn sót lại, chút nắng nhè nhẹ khẽ chiếu qua cành lá. Mùa xuân đến với một không khí trong lành và dễ chịu như thế.
Xuân chính là mùa cây cối đâm chồi nảy lộc. Từng lộc non sau mùa đông buốt giá như được bừng tỉnh, khẽ mở mắt mà ngắm nhìn vạn vật xung quanh cũng đang dần thay đổi. Lộc non đã hé – những búp non cứ xanh mơn mởn như một cô gái xuân thì đang e ấp diễm lệ. Nào chỉ thay lá, cây cối còn được điểm tô bởi muôn vàn nụ hoa tươi thắm. Hoa cúc, hoa lan, hoa lay ơn, cứ đua nhau khoe sắc trước sắc xuân. Xuân ở miền Bắc đặc trưng bởi hoa đào hồng thắm, riêng miền Nam lại dịu dàng với sắc mai vàng tươi. Nhìn ngọn cây ngọn cỏ như tươi vui hơn trong cơn mưa phùn đầu năm, thấy thấp thoáng những nụ mai đang dần hé là đã biết, mùa xuân đang dần đến rồi.
Xuân về, chim muông khắp nơi cũng bay về tận hưởng thời khắc đẹp nhất của đất trời. Chim én bay liệng thành từng hàng báo hiệu mùa xuân đã đến. Chim sẻ, chim ri hót líu lo tạo thành một khúc hợp xướng vô cùng rộn rã. Giữa những thay đổi của thiên nhiên vạn vật, con người như được tiếp thêm sinh khí để hòa vào niềm vui chung của đất trời. Người người nhộn nhịp sắm sửa, trang hoàng lại nhà cửa. Rồi cả gia đình cùng quây quần lại làm những món ăn truyền thống, cùng hồi hộp đón thời khắc chuyển mình kỳ diệu giữa hai năm. Người lớn bận rộn, trẻ con háo hức, nhưng tựu trung lại, ai cũng đều yêu quý mùa xuân. Bởi mùa xuân, cũng chính là mùa đoàn tụ.
Ai yêu cái đẹp không từng rung động trước mùa vẻ đẹp của xuân. Ai đi xa nhà không từng hồi hộp mỗi khi tết đến xuân về. Chỉ cần ngồi bên mâm cơm ngày đầu năm mới, những ưu tư, phiền muộn, những lo lắng, tủi hờn như cũng tiêu tan, nhường chỗ cho những niềm vui hoan hỉ bên người thân, bè bạn. Không khí tươi vui của đất trời như đang lan truyền sang tâm khảm của con người, mang cho họ những cảm xúc thân tình, hạnh phúc.
Tôi rất yêu thích mùa xuân bởi những vẻ đẹp thiên nhiên và văn hóa mà nó mang lại. Và chắc hẳn có rất nhiều người cũng say mê mùa xuân giống như tôi.
Mùa xuân mùa đẹp nhất trong một năm. Một năm mới khởi đầu bằng mùa xuân cũng là thời điểm con người thêm tuổi mới. Mỗi mùa xuân qua đi thì con người càng già đi, chỉ khác nhau là con người thì có tuổi còn mùa xuân thì không. Xuân đến rồi đi cứ thế vòng tuần hoàn của trời đất tiếp diễn.
Mùa xuân thời điểm bắt đầu vòng đời của đất trời, mùa xuân về người ta sửa soạn tươm tất để mình đẹp hơn, yêu đời hơn. Nhà cửa trang hoàng, làm mới, mua thêm vài lọ hoa trang trí trong nhà cho thêm sắc xuân. Trên bàn thờ mâm ngũ quả đầy đủ hy vọng một năm yên ấm và sung túc.
Thiên nhiên cũng thay hình đổi dạng, mùa hè cây cối bị cái nóng thiêu đốt đến xơ xác tiêu điều, mùa đông lạnh lẽo rét mướt đến mùa xuân đã đâm chồi nảy lộc, vươn mình trở nên xanh tươi, rực rỡ ban tặng cho những chú chim, chú ong, nàng bướm hoa thơm mật ngọt.
Mùa xuân cũng là thời gian sum vầy tụ họp, những con người đi xa quê hương học tập, làm việc nay trở về quê hương sum họp cùng gia đình, bạn bè. Những con người gặp nhau sau bao ngày xa cách, họ tặng cho nhau những cái bắt tay những lời chúc tốt đẹp, cái ôm, nụ hôn ấm áp và tình cảm. Và hơn tất cả mùa xuân như khiến con người trở nên gần gũi và xích lại gần nhau hơn.
Mùa xuân là như vậy đó, mùa của thiên nhiên phát triển, con người quây quần bên nhau quay về những giá trị tốt đẹp của truyền thống gia đình, dân tộc. Giờ đây trong tôi như cảm nhận được bông hoa tươi thắm đang tỏa hương khoe sắc. Cảm nhận được nụ cười tươi vui của mọi người, lời chúc tốt đẹp mà mọi người trao đến nhau và cảm nhận mâm cơm ngày tết nơi gia đình bên nhau ấm áp, gần gũi và hạnh phúc lạ kỳ.
Chẳng phải ngẫu nhiên, mùa xuân trở thành nàng thơ kiều diễm trong con mắt si tình của các thi nhân. Mùa xuân thường được ngợi ca với vẻ đẹp của đất trời cùng cỏ cây muôn loài, là mùa của sự sống nảy nở sinh sôi, mùa của tình yêu và hạnh phúc. Cũng như bao người, tôi yêu và khát khao mùa xuân tới – mùa xuân của đất trời và cũng là mùa xuân của lòng người.
Bức tranh bốn mùa trong năm, mỗi mùa lại đem đến cho đất trời một sắc màu riêng biệt. Nhưng với tôi mùa xuân luôn là mùa đẹp nhất. Khi từng đàn én nô nức chao liệng trên bầu trời, những tia nắng ấm áp bắt đầu lấp ló trên nhành cây cũng là lúc xuân tới. Nắng xuân ấm áp, chan hòa chứ không rực lửa như nắng mùa hạ nhưng cũng đủ để đánh thức muôn loài thức dậy sau một mùa đông giá lạnh. Hơi xuân ấm áp phả vào đất trời làm cho cảnh vật như được hồi sinh thêm lần nữa. Cây cối trong tiết xuân đua nhau đâm chồi nảy lộc, nhựa sống căng tràn từ những mầm xanh. Chưa bao giờ tôi hết yêu sự sống sinh ra từ những chồi non ấy, ngắm nhìn nó mà ta cũng cảm thấy yêu đời, yêu thiên nhiên hơn. Khi nàng xuân tới, muôn hoa còn đua nhau khoe sắc lộng lẫy như một bữa tiệc màu sắc để đón chào bà chúa của mình. Nếu có dịp được đến chợ hoa, chắc chắn bạn sẽ choáng ngợp bởi thiên đường màu sắc và hương thơm, chỉ có mùa xuân chợ hoa mới trở nên đông vui rộn ràng hơn cả. Màu vàng của hoa mai, màu hồng của hoa đào, màu trắng của hoa huệ hoa lan…, tất cả đã dệt lên một bức tranh rực rỡ, ngập tràn sắc màu. Đắm chìm vào những sắc xuân tôi cảm thấy bâng khuâng, hạnh phúc vô cùng. Tôi yêu mùa xuân của đất trời, yêu sự sống mà nó mang tới, yêu từng hơi thở của tiết xuân, yêu cả những hương sắc ngọt ngào mà mùa xuân đem tới.
Mùa xuân được xem là mùa của ước hẹn, mùa của tình yêu.Giữa tiết xuân chan hòa, ấm áp lòng người trào dâng bao khát vọng, bao tình yêu, khi ấy chúng ta dễ mở lòng mình hơn, cuộc sống trở nên tươi mới và hạnh phúc hơn. Chính vì thế chúng ta thường chọn mùa xuân để trao cho nhau những lời yêu, lời chúc. Những người đi xa cũng thường hẹn ước về một mùa xuân để gặp lại. Đôi lứa yêu nhau cũng vẫn hay chọn mùa xuân để trao cho nhau những đính ước hẹn thề về một ngày vu quy hạnh phúc. Với những ý nghĩa thiêng liêng ấy khiến ta càng thêm yêu và mong chờ mùa xuân về hơn bao giờ hết.
Mùa xuân còn là mùa của tuổi trẻ, mùa của sự bắt đầu. Người ta thường ví von rằng nếu như mùa xuân là mùa khởi đầu của một năm thì tuổi trẻ là khởi đầu của một đời người. Cả mùa xuân và tuổi trẻ giống nhau đều là hiện thân của sức sống mãnh liệt, sôi nổi chính vì thế mùa xuân của tuổi trẻ còn gánh thêm bao ước mơ, hi vọng về tương lai cuộc đời. Mùa xuân không chỉ là của đất trời mà còn là mùa xuân của lòng người rạo rực, tràn đầy sức sống.
Khi nhắc đến mùa xuân ta không thể không nhắc đến ngày tết cổ truyền của dân tộc. Khoảnh khắc giao thừa thiêng liêng chuyển mình từ năm cũ sang năm mới cũng có sự chứng kiến của mùa xuân. Trong giây phút ấy, mùa xuân hòa cùng lòng người giống tạo nên sự quyện không thể tách rời giữa đất trời và con người. Tết cổ truyền còn là tết đoàn viên, cả năm đi làm ăn xa, các thành viên trong gia đình chỉ có ngày tết là được trở về đoàn tụ bên nhau, cùng nhau ngắm sắc xuân, vì thế, mùa xuân còn được xem là mùa của sự đoàn tụ. Không chỉ dừng lại ở đó, trong tiết xuân ấm áp còn diễn ra rất nhiều những lễ hội ở khắp mọi miền tổ quốc như hội lim, hội đua thuyền, đua voi, lễ hội chọi trâu. Những nét đẹp văn hóa ấy đã làm phong phú thêm vẻ đẹp của mùa xuân, khiến cho nó thêm phần rực rỡ, sinh động.
Nếu như mùa xuân của đất trời mang bao hương sắc, lộng lẫy, kiêu sa thì mùa xuân của lòng người cũng không kém phần phong phú, rộn ràng. Mùa xuân với những ý nghĩa của nó không chỉ đẹp mà còn vô cùng thiêng liêng. Có ai chưa từng một lần rung động trước sắc xuân, có ai chưa từng biết tới vẻ đẹp và giá trị của mùa xuân. Hãy dành những khoảnh khắc cuộc đời mình để đắm chìm cùng mùa xuân, chắc chắn bạn sẽ cảm thấy yêu đời yêu cuộc sống hơn rất nhiều.
Mùa xuân thực sự là món quà vô giá mà mẹ thiên nhiên ban tặng cho con người. Ta thực sự tự hào vì mùa xuân hiện diện trên đất nước Việt Nam, hòa cùng bức tranh bốn mùa trong năm. Mùa xuân yêu kiều, diễm lệ, mùa xuân sôi nổi, giàu sức sống, mùa xuân của tình yêu và đoàn tụ. Chỉ thế thôi cũng đủ để ta yêu và trân trọng mùa xuân.
Mỗi năm có bốn mùa, mùa nào cũng có nét đẹp riêng. Mùa hạ thì cho ta cái nắng với một chút gió nhẹ thoảng đâu đó là sự chia ly là những giọt nước mắt của cô cậu học trò. Mùa thu thì cho ta cái cảm giác của nỗi buồn, cái buồn man mác mà nhẹ nhàng theo đó là chút nắng nhẹ chứ không gay gắt như mùa hạ. Mùa đông là mùa của những cơn gió se se lạnh. Và cuối cùng đặc biệt nhất vẫn là mùa xuân, mùa của sự sum vầy, hội họp.
Khi mùa đông kết thúc, thời tiết dần ấm lên cũng là lúc xuân chuẩn bị về. Cây cối bắt đầu trở về với một sức sống mới. Những chồi non nhỏ xanh mơn mởn đang dần vươn lên, đưa sự sống tươi trẻ trở lại sau những tháng năm héo úa. Tiết trời dần thay đổi. Bầu trời trở nên trong xanh hơn. Ánh nắng dần xuất hiện, những cơn gió mơn man nô đùa. Con người cũng trở nên như vui vẻ hơn. Phố phường tấp nập nhộn nhịp, tạo một bầu không khí ấm áp hơn.
Mùa xuân là mùa bắt đầu của một năm mới, mỗi đứa con xa nhà, xa quê hương lại có được phút giây trở về. Khi bắt đầu mùa xuân cũng là lúc tất cả con người Việt Nam đón tết. Theo dân gian gọi là tết đoàn viên, hai chữ đoàn viên nghe thật ấm lòng. Mùa xuân là niềm vui của sum họp, là những câu chúc phúc của mọi người, cũng là thời gian để củng cố tình thương dành cho nhau. Đó là khi tất cả gia đình được đoàn tụ.
Mùa xuân cũng đúng với tên gọi, đúng ý nghĩa như sự tươi trẻ, mạnh mẽ. Đó cũng là lúc để con người, điểm lại bản thân, xem mình đã thay đổi những gì, là lúc để ta biết được mình đã trưởng thành ra sao và sự thay đổi của từng năm sẽ cho ta biết được mình nên làm gì để đi tiếp những năm tháng sau này. Mùa xuân đối với tôi là mùa đẹp nhất trong năm nhưng cũng là mùa tôi cảm thấy buồn nhất vì cứ qua mỗi năm tôi lại càng lớn, sự trưởng thành của tôi sẽ chẳng làm tôi buồn nếu như không kéo theo đó là những nếp nhăn là những sợi trắng điểm bạc trên mái tóc của đấng sinh thành. Nếu có thể tôi mong thời gian sẽ ngừng lại, ngừng lại ngay khoảnh khắc ba mẹ vừa bước sang tuổi trung niên để ba mẹ mãi sống cùng tôi.
Mùa xuân mang đến cho ta nhiều cung bậc cảm xúc nhất, vui có buồn có xúc động có hạnh phúc cũng có và với tôi, tôi gọi mùa xuân là mùa của những cảm xúc không tên.
Khí hậu miền Bắc nước ta một năm chia làm bốn mùa rõ rệt: Xuân, hạ, thu, đông. Mùa nào cũng có những nét đẹp riêng nhưng mùa xuân có nhiều điều thú vị nhất.
Theo quy luật tuần hoàn của tạo hóa, cứ đông tàn thì xuân đến. Trước Tết Nguyên Đán khoảng nửa tháng, thời tiết bắt đầu thay đổi. Những trận mưa phùn lạnh lẽo thưa dần rồi ngớt hẳn. Bầu trời không còn nhuốm màu xám xịt mả đã sáng tươi hơn. Những dải mây trắng hoặc xanh lơ màu nước biển lãng đãng trôi. Không khí ấm áp làm cho con người cùng vạn vật lại trào dâng nhựa sống, náo nức đón đợi mùa xuân.
Giữa không trung, chim én từng đàn vun vút chao liệng, báo hiệu mùa xuân sắp bắt đầu. Nếu để ý một chút, ta sẽ thấy trên những cành lộc vừng, cơm nguội, bàng… ven đường đã rụng hết lá, vô số chiếc mầm nhỏ xíu đang cựa quậy, muốn xuyên thủng lớp vỏ xù xì, thô ráp để nhú ra những búp non, lộc non mơn mởn trong mưa xuân.
Những ngày giáp Tết ở Hà Nội rộn ràng và náo nức lạ thường. Niềm vui ngời lên trong ánh mắt trẻ thơ, trong dáng điệu tất bật của những người đi sắm Tết. Gương mặt phố phường thay đổi nhanh chóng. Nhà cửa được trang hoàng lộng lẫy bằng sắc màu rực rỡ của đèn, hoa, của những tấm băng-rôn đỏ với dòng chữ vàng: “Chúc mừng năm mới” vẽ những cành đào, cành mai, hay những chiếc đèn lồng xinh xắn.
Các chợ lớn nhỏ trong thành phố đều đông nghịt người. Mọi người háo hức đi chuẩn bị đồ Tết. Đông nhất và đẹp nhất chắc chắn là những chợ hoa với đủ các loại hoa khoe sắc. Tết cũng là thời điểm để gia đình được đoàn tụ bên nhau. Con người được nghỉ ngơi sau một năm làm việc vất vả. Họ có thời gian để nhìn lại một năm đã qua, cũng như lên kế hoạch cho năm mới. Mùa xuân đến, con người thường mơ ước về những điều tốt đẹp hơn.
Đối với tôi, mùa xuân có một nét đẹp thật riêng biệt. Chẳng sai khi có thể nhận xét rằng, mùa xuân là mùa đẹp nhất trong một năm.
Trong tinh hoa của trời đất có lẽ mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm. Trải qua ba tháng mùa đông giá lạnh, mùa xuân về sẽ là thời điểm đất trời tái sinh.
Xuân đến, đất trời có nhiều đổi thay. Cây cỏ sinh sôi nảy nở, chim muông kéo về ca lên những bản nhạc rộn ràng và chào đón thời điểm của khoảnh khắc giao mùa. Hơi xuân len lỏi khắp mọi căn nhà, phả vào lòng người. Mùa xuân đến cũng là thời điểm tết về con người quay về quê hương đoàn tụ.
Mùa xuân là mùa của đoàn tụ và ước mơ của mọi người, mùa xuân là thời điểm đoàn viên sau một quãng thời gian xa cách. Mùa xuân còn giúp mỗi người tăng thêm một tuổi. Vì thế Tết đến chúng ta chuẩn bị lì xì đỏ để mừng tuổi cho trẻ em và mừng thọ người già.
Ai trong chúng ta cũng đón chào mùa xuân với sự hân hoan và vui vẻ, loại bỏ đi những lo toan của cuộc sống. Người gặp người với nụ cười cầu chúc nhau năm mới may mắn, vạn sự như ý. Trẻ em được bố mẹ mua quần áo, đồ chơi mới và mừng tuổi. Ai cũng trở nên thật đẹp, xinh và lộng lẫy. Những cuộc vui chơi nô đùa của bọn trẻ khiến không khí trở nên rộn ràng. Các cửa hàng bánh, kẹo, mứt lúc nào cũng chật kín người mua sắm. Các loài hoa như đào, mai được bày bán đua nhau khoe sắc chào mùa xuân về.
Đối với em, mùa xuân là mùa đẹp nhất. Không như cái nắng gắt của mùa hè, không như tiếng lá xào xạc rơi mỗi lúc chiều buồn đổ bóng của mùa thu, không như cái rét thấu xương của mùa đông, mùa xuân quả là vui tươi và rực rỡ hơn hẳn.
Tạm biệt mùa đông lạnh giá ta có thể nhìn thấy trên bầu trời xanh biêng biếc kia không những chỉ là hai hay ba con én mà là hàng trăm hàng vạn con chao lượn trên không trung. Mỗi cánh én mang một thông điệp của mùa xuân khởi đầu cho một năm mới đầy hứa hẹn.
Mùa xuân thời điểm mà vạn sự khởi đầu các dự định trong công việc học tập và các kế hoạch đều được đặt ra rõ ràng cụ thể. Có thể nói mùa xuân là thời kì mở đầu của năm mới, theo phong tục phương đông của người Việt mọi điều không hay hoặc các việc còn dang dở trong năm đều phải hoàn thành và kết thúc trước khi xuân về đặc biệt là tết cổ truyền của người Việt Nam.
Có ai mà quên được cái cảm giác tưng bừng rộn rã của những ngày gần năm mới. Nhà nhà đều dọn sạch sẽ sắm sửa đầy đủ và có lẽ vui nhất vui nhất chính là nấu bánh chưng bánh giầy. Cả nhà ngồi lại gói bánh chưng rồi cùng nhau nấu. Bánh chưng hay bánh giầy nấu có phần hơi lâu nhưng cái lâu ấy đã tạo ra biết bao nhiêu niềm vui cho lũ trẻ. Nhớ sao những đêm ra nơi bếp nấu bánh rực hồng châm lửa thêm nước rồi canh nồi bánh cho đến gần sáng thi thoảng không quên mở nắp xem bên trong như thế nào. Vì mỗi năm gia đình chỉ có một lần như thế nên từng chiếc bánh rất được nâng niu. Sắp tới tết là có biết bao nhiêu thứ phải sắm sửa, riêng lũ nhỏ chúng em đứa nào cũng nặng nặc đòi bố mẹ sắm đồ tết những hôm mới xong tết dương lịch.
Tết đến xuân về, dịp tết là dịp nhà nhà sum vầy vui vẻ bên nhau là lúc con người được nghỉ ngơi thư giãn sau một năm. Niềm hạnh phúc nhất chính là được ăn bữa cơm đoàn viên vào đêm giao thừa. Mùa xuân còn khiến con người trở nên hân hoan, hạnh phúc hơn.
Có thể thấy, mùa xuân chính là mùa đẹp nhất trong một năm. Không chỉ vậy, đó còn là mùa đem đến cho con người nhiều cảm xúc đẹp đẽ.
“Xuân đã về! Xuân đã về! Kìa bao ánh xuân về vui quá!…” Mùa xuân, mùa của tràn trề hy vọng, mùa của sôi nổi ước mơ và khao khát. Và bởi thế, tiếng “xuân đã về” được tất thảy chúng ta reo lên như tiếng chào mừng một vị chúa nhân từ, đẹp đẽ.
Advertisement
Xuân đến, khu vườn nhà như đang khoác lên mình một chiếc áo nhung xanh, điểm xuyết trên đó là quýt đỏ, cam vàng trông càng đáng yêu. Trên các cành cây kẽ lá còn sót lại những đốm sương, trông xa như dát kim cương. Sớm nay, những cô cậu chim én đi di cư từ hôm nào mà bây giờ đã đột ngột bay về đậu vắt vẻo trên cành khế vươn cổ hót líu lo bài ca chào xuân bằng giai điệu thiêng liêng và kiểu cách. Ông mặt trời dần nhô cao, nắng dần xanh biếc. Ánh nắng sưởi ấm thềm nhà, mái ngói. Ánh nắng còn khẽ gõ cửa gọi những chồi non mơn mởn vừa được sinh ra trong mùa đông nhưng còn e ấp, ngại ngùng chưa dám ra chào bà con hàng xóm.
Thật kỳ diệu biết bao! Mới chỉ có một vài tuần mà nắng đã gọi thức chồi non của muôn nghìn cây lá. Nhìn màu xanh non của chồi biếc, ai cũng thấy tràn đầy sức sống. Sức xuân mãnh liệt cứ thế theo nắng vàng, theo chồi biếc mà ào ào tràn khắp mọi nơi, ban bố lộc trời cho muôn vật muôn loài. Cảnh sông suối được ánh nắng mặt trời chiếu tỏa trông xa như dát vàng. Lũ cá đủ màu sắc đang tung tăng chao lượn như muốn hòa chung niềm vui với tất cả mọi người trong mùa xuân năm mới này. Cô gió vui vẻ nhởn nhơ trên cánh đồng thẳng cánh cò bay khiến mái đầu những cây lúa đang thì con gái được dịp ghé sát vào nhau tâm tình trò chuyện. Trẻ con trong làng chạy tung tăng, mặt đứa nào đứa nấy đều vui vẻ và hớn hở vì được nhận tiền lì xì. Cây mai, cây đào đón nắng trước sân nhà bỗng cựa mình, vỡ những búp me xám xanh ra thành vô vàn búp non tươi màu lá mạ. Cây mai, cây đào không thể thiếu được trong mỗi gia đình ngày tết ngày xuân. Nó như một vị thần linh của mọi người nơi đây giúp họ bước sang năm mới hạnh phúc, vui vẻ và gặp nhiều điều may mắn.
Mùa xuân – mùa của hy vọng, đợi chờ sẽ sống mãi trong mỗi người chúng ta nơi đây.
Có lẽ trong bốn mùa xuân, hạ, thu và đông thì mùa xuân được yêu thích nhất. Không chỉ bởi xuân về tiết trời trở nên ấm áp, vạn vật tràn đầy sức sống. Mà mùa xuân còn gắn với ngày tết cổ truyền của dân tộc, nhắc nhở con người về một mùa đoàn viên.
Mùa xuân là mùa bắt đầu của một năm, cũng là mùa đẹp nhất trong năm. Khi mùa xuân đến, cảnh vật như vừa lấy lại sức sống mới. Tiết trời se lạnh, gió thổi man mác. Từng đợt gió nhẹ thoảng qua, cành lá khẽ lung lay để lộ ra những giọt sương long lanh huyền ảo. Mặt trời vừa mới nhô lên tỏa ánh nắng sưởi ấm vạn vật. Chim hót ríu rít đón chào ngày mới. Trong vườn, chị Hồng chợt tỉnh giấc rồi hòa vào đám bạn đang đua nhau khoe sắc. Các chú bướm bay rập rờn cùng bầy ong thợ chăm chỉ hút mật làm cho khu vườn thêm nhộn nhịp. Những bông hoa mai vàng thắm bừng nở báo hiệu một mùa xuân ấm áp đã đến. Khung cảnh khu vườn như một bức tranh thiên nhiên rực rỡ được họa sĩ nào đó vẽ lên.
Nhưng với mùa xuân, điều làm em thích nhất chính là những cơn mưa xuân. Mưa mùa xuân không quá dữ dội như cơn mưa đầu hạ. Cũng không mang cái lạnh như cơn mưa mùa đông. Nó nhẹ nhàng như chính cảm nhận về mùa xuân vậy. Mưa xuân thường kéo dài rất lâu, có khi đến mấy ngày đôi khi khiến con người cảm thấy khó chịu. Những hạt mưa chỉ rơi lất phất nhưng nhưng vẫn đủ làm ướt áo người đi đường. Nếu như mưa phùn khiến con người cảm thấy lạnh lẽo thêm trong mùa đông giá buốt. Thì mưa xuân lại như gọi mọi vật tìm về với sức sống. Đặc biệt là cơn mưa xuân vào khoảnh khắc giao hòa giữa năm cũ và năm mới. Bầu trời đêm cuối đông se lạnh. Không có sao và không một gợn mây. Trong giây phút thiêng liêng của đất trời và của lòng người. Những hạt mưa xuất lất phất bay khắp không gian khiến cho con người cảm thấy thật hân hoan. Mưa không quá lớn để làm ướt áo đi đường. Những hạt mưa chỉ nhỏ bé rơi xuống liên tiếp rồi tan vào lòng đất. Mưa còn đem theo hơi ấm của mùa xuân. Những hạt mưa thấm vào lòng đất lạnh để nuôi dưỡng những mầm cây. Sau cơn mưa xuân giao mùa, vạn vật đã hoàn toàn thay đổi.
Mùa xuân đến, con người cũng cảm thấy hân hoan hơn. Chúng ta chào đón một năm mới đến với những niềm vui mới. Mùa xuân gắn với ngày tết cổ truyền của dân tộc. Người lớn rộn ràng chuẩn bị để đón tết. Trẻ em thích thú vì được sắm sửa quần áo mới. Các khu chợ ngày tết tấp nập người ra kẻ vào. Nhưng tôi thích nhất là mỗi ngày tết, gia đình mình được sum họp bên nhau trong đêm giao thừa với mâm cơm ấm áp sau một năm làm việc bận rộn. Mọi người cùng trò chuyện về một năm cũ đã qua, hứa hẹn về một năm mới sắp đến…
Quả là, mùa xuân đã gắn kết con người hơn. Tôi yêu mùa xuân không chỉ bởi cảnh sắc mà còn bởi những điều kì diệu mà nó đã đem đến cho con người.
Mỗi mùa đều có một nét đẹp riêng. Nhưng với tôi, mùa xuân là đẹp nhất, cũng đem đến nhiều cảm xúc tuyệt vời nhất.
Tạm biệt một mùa đông lạnh giá, mùa xuân đến khiến cho tiết trời trở nên ấm áp hơn . Từng đợt gió nhẹ thoảng qua, cành lá khẽ lung lay để lộ ra những giọt sương long lanh huyền ảo. Mặt trời vừa mới nhô lên tỏa ánh nắng sưởi ấm vạn vật. Chim hót ríu rít đón chào ngày mới. Trong vườn, hàng trăm loài hoa khoe sắc thắm. Vài chú bướm bay rập rờn cùng bầy ong thợ chăm chỉ hút mật làm cho khu vườn thêm nhộn nhịp. Những bông hoa mai, hoa đào thắm bừng nở báo hiệu một mùa xuân ấm áp đã đến. Chiều xuân không mang vẻ xao xác hơi may của chiều thu, cũng không ủ dột như chiều đông, cũng chẳng mang vẻ gay gắt như chiều hè. Chiều xuân không giống chiều nào trong năm mà nó mang một vẻ đẹp rất riêng. Gió thổi nhè nhẹ làm cho khung cảnh chiều xuân thật dịu êm. Những hàng cây thong dong ngắm cảnh mây trời. Thấp thoáng đàn chim én bay về sau cuộc hành trình xa xôi. Lũy tre làng xào xạc trong gió xuân ấm áp.
Mùa xuân về, một năm mới lại đến. Con người trở nên vui tươi hơn. Chúng ta cùng gác lại những điều nuối tiếc của một năm cũ để chào đón một năm mới với nhiều niềm vui, thành công hơn. Đây cũng là lúc các gia đình lại tất bật chuẩn bị cho dịp Tết cổ truyền của dân tộc. Một mùa đoàn viên nữa lại sắp về. Lòng người thêm hân hoan, háo hức và nhớ quê đến kì lạ. Mùa xuân cũng là mùa của rất nhiều lễ hội dân gian sôi động, gắn kết con người trở nên gần gũi hơn.
Mùa xuân – mùa bắt đầu của một năm. Mùa đem đến cho con người những niềm hứng khởi, vui tươi của một khởi đầu mới.
Bốn mùa xuân, hạ, thu và đông đều đẹp đẽ. Nhưng đối với tôi, mùa xuân là đáng yêu hơn cả. Bởi xuân về đem theo những điều thật tuyệt vời.
Chẳng sai khi nói rằng mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm. Tạm biệt chuỗi ngày u ám, lạnh giá của mùa đông. Tiết trời vào xuân dần trở nên ấm áp, không còn giá lạnh của những ngày đông. Ông mặt trời dậy thật sớm để đánh thức mọi người sau một đêm dài. Hạt sương đọng trên lá cây cũng dần tan biến. Gió khẽ lướt qua khiến những cành lá rung rinh. Bầu trời buổi sáng sớm cũng bớt đi cái âm u, xám xịt. Chị gió tung tăng nô đùa khắp nơi. Cô mấy thì dạo chơi quanh những ngọn núi phía xa. Đất trời vào xuân tràn đầy sức sống.
Mùa xuân về, cũng là khi một năm mới nữa lại sang. Con người trở nên vui tươi hơn. Tạm biệt một năm cũ qua đi để đón chờ khởi đầu mới với nhiều may mắn, thành công. Còn tôi thích nhất ở mùa xuân là khi Tết đến. Không khí những ngày tết mới thật ấm áp biết bao. Mọi người trong gia đình cùng nhau dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ để đón năm mới. Người lớn chuẩn bị mua sắm đồ Tết. Trẻ con háo hức mong từng ngày được nghỉ học. Khắp các khu chợ bỗng tấp nập hẳn lên. Tiếng người mua bán thật nhộn nhịp. Chợ Tết rất nhiều các mặt hàng từ đồ ăn, thức uống đến quần áo, giày dép… Vào ba mươi Tết, cả nhà tôi lại sum vầy bên mâm cơm giao thừa. Cả gia đình vừa ăn uống, vừa trò chuyện với nhau về những điều đã xảy ra trong một năm vừa qua. Thật tuyệt vời biết bao!
“Xuân xuân ơi xuân đã về, có nỗi vui nào vui hơn ngày xuân đến. Xuân xuân ơi xuân đã về, tiếng chúc giao thừa chào đón mùa xuân…” (Mùa xuân ơi). Mỗi lần lắng nghe những giai điệu này, lòng tôi lại cảm thấy háo hức, hân hoan vì một mùa xuân nữa lại về.
Mỗi mùa đều có những nét đẹp khác nhau. Nhưng có lẽ, em cảm thấy yêu thích nhất là mùa xuân – mùa của tiết trời ấm áp, của sự sống đâm chồi nảy lộc.
Mùa xuân là mùa đầu tiên của một năm. Và mỗi khi xuân về, em lại cảm thấy vô cùng thích thú. Mấy ngày trước, bầu trời còn xám xịt, làn gió lạnh lùa qua bên tai. Vậy mà khi xuân đang về, đất trời dường như lột xác. Xuân đến, ánh mặt trời ấm áp hơn hơn. Bình minh của ngày mới lên tỏa ra nhưng ánh nắng lung lung chiếu rọi xua tan lớp mây đen dày đặc bao ngày qua. Bầu trời xanh trong như được gội rửa sau những ngày âm u của mùa đông. Những áng mây như được ai nhuộm trắng, chúng bồng bềnh trôi êm đềm trên bầu trời. Gió xuân cũng trở nên hiền dịu, gió thổi nhẹ nhàng như hát những khúc ca xuân. Thật dễ chịu biết bao khi được cảm nhận không khí của trời xuân.
Khi xuân đến, những chồi non như tỉnh dậy sau một giấc ngủ đông thật dài. Tất cả đua nhau đâm chồi nảy lộc xanh mơn mởn. Chính những tia nắng ấm áp của mùa xuân chính là vị thần gõ cửa đánh thức mùa xuân. Muôn loài hoa chỉ chờ đợi đến lễ hội xuân để cùng nhau trẩy hội, cùng nhau khoe hương, khoe sắc. Sắc xuân khiến cho lòng người thêm hân hoan, vui tươi.
Xuân về cũng là lúc con người đón chào năm mới. Đây cũng là thời điểm có dịp Tết cổ truyền của vô cùng quan trọng của dân tộc. Đã bao đời nay, Tết trở thành một lễ hội nằm trong niềm mong đợi và không thể thiếu của con người Việt Nam. Mỗi khi Tết đến, mỗi người trong gia đình đều có những công việc riêng. Tuy ai cũng bận rộn, nhưng tất cả đều cảm thấy vui vẻ. Đặc biệt nhất là khi cả nhà cùng gói bánh chưng. Những chiếc lá rong xanh, hạt đỗ vàng, thịt mỡ và gạo trắng thơm. Bố bận rộn dọn dẹp nhà cửa. Mẹ thì đi chợ mua đồ chuẩn bị cho những ngày tết. Anh trai ra chợ hoa mua cây quất, cây đào về trang trí nhà cửa. Em cũng phụ giúp mọi người hoàn thành công việc của mình. Đêm ba mươi, cả nhà em cùng quây quần bên mâm cơm, rồi ngồi xem chương trình văn nghệ. Những ngày đầu năm mới, mọi người mặc quần áo thật đẹp để đi chúc Tết họ hàng. Em cũng chúc Tết ông bà, bố mẹ và nhận được phong bao lì xì đỏ thắm. Không khí hân hoan, vui tươi khiến bao trùm lấy mỗi người.
Mùa xuân – mùa của sự sống, của niềm hạnh phúc và sum vầy. Xuân đến mang bao niềm hy vọng cho mọi người, cho quê hương và đất nước thân yêu của em. Yêu sao mùa xuân – mùa đẹp nhất trong năm.
Văn Mẫu Lớp 11: Phân Tích Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát Hay Nhất 2 Dàn Ý &Amp; 10 Bài Văn Mẫu Lớp 11 Siêu Hay
Dàn ý phân tích Bài ca ngắn đi trên bãi cát Dàn ý số 1I. Mở bài:
– Những nét chính về tác giả Cao Bá Quát: Một tác giả trung đại có cuộc đời bất hạnh nhưng hào hùng. Ông mang đến thơ văn sự độc đáo mới mẻ theo hướng bám sát hiện thực.
– Giới thiệu Bài ca ngắn đi trên bãi cát: được sáng tác trên đường tác giả đi thi Hội. Bài thơ thể hiện tâm tư của một sĩ tử trên đường danh lợi.
II. Thân bài:
1. Bốn câu đầu
– Tiếng khóc cho cuộc đời dâu bể.
“Bãi cát dài lại bãi cát dài”: Điệp từ gợi lên hình ảnh những bãi cát nối tiếp nhau đến vô tận. ⇒ Hình ảnh bãi cát dài mênh mông, nối tiếp nhau tượng trưng cho môi trường xã hội, con đường đời đầy chông gai, gian khổ, nhọc nhằn.
“Đi một bước lùi một bước”: sự vất vả, khó nhọc của người đi đường, đây vừa là cảnh thực vừa là tượng trưng cho con đường công danh gập ghềnh của tác giả.
“Mặt trời đã lặn chưa dừng được”: Mặt trời lặn mà vẫn còn đi, nước mắt rơi lã chã, tâm trạng đau khổ.
“Lữ khách trên đường nước mắt rơi”: Cảnh tượng một người đi trong không gian mù mịt, mênh mông, khó xác định được phương hướng.
⇒ Hình ảnh bãi cát dài mênh mông, nối tiếp nhau, hình ảnh con đường như bất tận, mờ mịt, tình cảnh của người đi đường khó khăn, bất lợi.
⇒ Nhà thơ nhìn thấy con đường danh lợi đáng buồn, đầy chông gai
2. Tám câu tiếp
– “Không học …lội suối, giận khôn vơi!”: sử dụng điển tích, tác giả giận mình vì không có khả năng như Hạ Hầu Ấn có thể nhắm mắt mà vẫn bước đều khi leo suối, lội nước ⇒ oán giận con đường công danh.
– “Xưa nay… đường đời”: sự cám dỗ của cái bả công danh đối với người đời, danh lợi khiến con người “tất tả”.
⇒ sự chán ghét, khinh bỉ của Cao Bá Quát đối với danh lợi, ông không muốn sa vào con đường ấy, nhưng vẫn chưa tìm ra hướng đi khác cho mình,
– “Đầu gió … tỉnh bao người”: chuyện mưu cầu danh lợi cũng hấp dẫn như thưởng thức rượu ngon, làm say người, ít ai có thể tránh được sự cám dỗ. ⇒ ông nhận ra sự cám dỗ của danh lợi đối với con người.
– “Bãi cát dài…nhiều, đâu ít?”: Nhận ra sự cám dỗ công danh, nhà thơ như trách móc, giận dữ nhưng cũng chính đang tự hỏi bản thân. Ông nhận ra tính chất vô nghĩa của lối khoa cử đương thời nhưng cũng vẫn đang bước trên con đường ấy ⇒ Tâm trạng băn khoăn, day dứt, bế tắc, bước trên con đường công danh thì mù mịt mà “đường ghê sợ” thì nhiều không ít.
– “Khúc đường cùng”: nghĩa biểu tượng, đây là bài ca về con đường cùng của chính tác giả, về sự bế tắc, tuyệt vọng của mình trước cuộc đời.
3. Ba câu cuối
+ Tả thực: khung cảnh gợi cảm giác ngột ngạt, bó buộc.
⇒ Thiên nhiên phía Bắc, phía Nam đều đẹp hùng vĩ nhưng cũng đầy khó khăn hiểm trở, đi mà chỉ thấy phía trước là núi là biển mênh mông mịt mờ.
+ Biểu tượng cho ý niệm: cuộc đời bế tắc, ngột ngạt.
⇒ Nghĩa ẩn dụ, tượng trưng: con đường đời đầy chông gai mà kẻ sĩ như Cao Bá Quát phải dấn thân để mưu cầu công danh.
– “Anh còn đứng làm chi trên bãi cát”: tiếng kêu bi phẫn, bế tắc, tuyệt vọng.
⇒ Tư thế dừng lại nhìn bốn phía mà hỏi vọng lên trời cao, lại hỏi chính lòng mình thể hiện khối mâu thuẫn lớn đang đè nặng trong tâm trí nhà thơ.
4. Nghệ thuật
– Sử dụng thơ cổ thể, hình ảnh có tính biểu tượng.
– Thủ pháp đối lập, sáng tạo trong dùng điển tích.
III. Kết bài:
– Khẳng định lại những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật.
– Khúc bi ca mang đậm tính nhân văn của một con người cô đơn, tuyệt vọng trên đường đời thể hiện qua hình ảnh bãi cát dài, con đường cùng và hình ảnh người đi cùng.
Dàn ý số 21. Mở bài
– Giới thiệu khái quát Cao Bá Quát: là một người hiểu biết, được nhân dân tôn sùng “Thánh Quát”.
– Giới thiệu về “Bài ca ngắn đi trên bãi cát”.
2. Thân bài
a. Hình ảnh bãi cát và con người đi trên bãi cát
– “Bãi cát dài lại bãi cát dài”: mênh mông dường như bất tận, nóng bỏng.
– Mặt trời lặn: sự tối tăm, mù mịt
– Hình ảnh người đi trên bãi cát:
Đi một bước như lùi một bước: nỗi vất vả khó nhọc
Không gian đường xa, bị bao vây bởi núi sông, biển
Thời gian: mặt trời lặn vẫn còn đi.
b. Tâm trạng và suy nghĩ của lữ khách khi đi trên bãi cát
“Không học được….giận khôn vơi”
– Nhịp điệu đều, chậm, buồn: người đi tự giận mình không có khả năng như người xưa, mà phải tự hành hạ mình, chán nản mệt mỏi vì công danh – lợi danh. Đó là nỗi ngao ngán của kẻ sĩ đi tìm chân lí giữa cuộc đời mờ mịt.
– “Xưa nay phường….bao người”
+ Câu hỏi tu từ, hình ảnh gợi tả (hơi men)
“ Bãi cát dài…ơi…”
– Câu hỏi tu từ cũng là câu cảm thán thể hiện tâm trạng băn khoăn, day dứt giữa việc đi tiếp hay dừng lại?
– Hình ảnh thiên nhiên: phía bắc, phía nam đều đẹp nhưng đều khó khăn, hiểm trở.
3. Kết bài
Cảm nhận chung về bài thơ.
Phân tích Bài ca ngắn đi trên bãi cát – Mẫu 1Cao Bá Quát là người học rộng, tài cao, bản lĩnh, ông được người đời mệnh danh là Thánh Quát (Thần Siêu, Thánh Quát). Thơ văn của ông bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ, và mong muốn đổi mới xã hội. Tác phẩm Bài ca ngắn đi trên bãi cát là một trong những sáng tác thể hiện tâm trạng của ông trước thực trạng xã hội đương thời.
Bài ca ngắn đi trên bãi cát có thể được hình thành trong những lần Cao Bá Quát đi thi hội, phải đi qua những sa mạc đầy nắng gió, bởi vậy ông đã viết bài thơ này. Mượn hình ảnh những người đi trên bãi cát để hình dung con đường mưu cầu danh lợi đáng ghét mà ông buộc phải theo đuổi. Mở đầu bài thơ là hình ảnh những bãi cát dài nối tiếp nhau:
Từ “bãi cát” được lặp lại hai lần, kết hợp với từ “lại” gợi ra trước mắt người đọc không gian hoang vu, tít tắp không có điểm dừng. Không gian ấy rộng lớn, như nuốt chửng người bộ hành cô đơn giữa sa mạc. Bãi cát ấy bị bao quanh bởi “Bắc sơn chi bắc sơn vạn điệp/ Nam sơn chi nam ba vạn cấp” con đường đó bị bao quanh bởi núi muôn trùng, sóng muôn đợt, đó là con đường tù túng, không lối thoát.
Hành trình càng trở nên khó khăn vất vả hơn khi tiến một bước lại như lùi một bước. “Mặt trời đã lặn chưa dừng được” bởi hành trình đó quá xa xôi, quá nhiều thử thách khiến cho người bộ hành không dám dừng chân lấy một phút dù cả khi mặt trời đã xuống núi, muôn loài đã vào trạng thái nghỉ ngơi. Trong hành trình đầy cực khổ, vất vả lại không thể nhìn thấy đích tới, tất yếu tâm trạng của người bộ hành sẽ cảm thấy vô cùng mệt mỏi, bải hoải: Lữ khách trên đường nước mắt.
Hình ảnh người lữ khách trên đường tủi cực, chán nản cũng chính là hình ảnh của tác giả và các trí thức đương thời trước thực tại xã hội đầy nhiễu nhương, rối ren lúc bấy giờ. Bởi vậy mà con đường theo đuổi công danh, hoạn lộ cũng gặp nhiều trắc trở, khó khăn hơn. Để từ đó Cao Bá Quát có những nhận thức về việc theo đuổi công danh:
Ông đồng nhất công danh với danh lợi, cách đồng nhất như vậy cho thấy thái độ mỉa mai, coi thường theo quan điểm của một nhà nho chân chính. Công danh vốn là cái nợ mà người làm trai phải trả đối với non sông, đất nước: “Đã làm trai ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”. Nhưng thực trạng xã hội đương thời nhiễu loạn, rối ren thì chí làm trai đó đâu có cơ hội để thực hiện, mộng công danh của những người quân tử bị vùi lấp, phường danh lợi đua chen tất tả, thắng thế. Đây cũng chính là nỗi đau của biết bao thế hệ nho sĩ trong thời buổi đất nước loạn lạc.
Nhưng không ít người bị hơi men công danh làm cho chếnh choáng, không tỉnh táo, không ý thức được những việc mình đang làm. Câu hỏi tu từ “tỉnh bao người” vừa bộc lộ thái độ phê phán, vừa thể hiện sự đau xót của người trí thức chân chính trước thực trạng đau lòng của xã hội đương thời. Qua bốn câu thơ Cao Bá Quát bộc lộ thái độ coi thường với những người theo đuổi con đường công danh vô nghĩa và bản thân những kẻ mê muội đang miệt mài ngày đêm đi trên con đường đó.
Trước thực trạng đó, Cao Bá Quát cũng băn khoăn lựa chọn: “Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt/ Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?”. Và để sau đó ông đã đưa ra lựa chọn dứt khoát:
Tác giả một lần nữa nhận định về con đường công danh: con đường đó đầy chông gai, nguy hiểm, đường phẳng thì mờ mịt, không thấy lối, chỉ có bước đường ghê sợ chông gai thì nhiều. Đó còn là con đường bế tắc, không hi vọng “núi muôn trùng” “sóng muôn đợt” bủa vây lấy người nho sĩ. Bởi vậy “Anh còn đứng làm chi trên bãi cát” là thái độ dứt khoát của tác giả từ bỏ theo đuổi con đường hoạn lộ công danh vô nghĩa.
Hình ảnh thơ giàu ý nghĩa biểu tượng, bãi cát vừa mang ý nghĩa tả thực vừa biểu tượng cho con đường công danh nhiều gian nan, đua tranh vô nghĩa. Nhịp điệu bài thơ thay đổi linh hoạt diễn tả những trắc trở khi đi trên bãi cát và con đường công danh. Sử dụng nhiều câu hỏi tu từ thể hiện sự thức tỉnh của người trí sĩ khi nhận ra sự vô nghĩa của con đường công danh đương thời.
Bằng hình ảnh bãi cát giàu ý nghĩa biểu trưng, tác phẩm đã khắc họa rõ nét hình ảnh người trí thức đương thời vừa cô độc, nhỏ bé, bi phẫn vừa kiên quyết khi từ bỏ con đường công danh. Từ đó bài thơ phản ánh thực trạng xã hội thối nát, đầy nguy hiểm với người trí thức tài hoa .
Phân tích Bài ca ngắn đi trên bãi cát – Mẫu 2Cao Bá Quát (1808 — 1855) là nhà thơ lỗi lạc của nước ta trong thế kỉ 19. Ông để lại trên một nghìn bài thơ chữ Hán và chữ Nôm; bài phú “Tài tử đa cùng phú” và bài thơ chữ Hán “Sa hành đoản ca” được nhiều người ca ngợi.
“Sa hành đoản ca” nghĩa là bài ca ngắn đi trên bãi cát nói lên bi kịch của kẻ sĩ trên bước đường công danh.
Bãi cát dài và con đường cùng trong “Sa hành đoản ca” được miêu tả đầy ám ảnh. Bãi cát dài được nhắc đi nhắc lại năm lần trong bài thơ. Con đường được nói tới là “đường cùng”: “Bước đường bằng phẳng thì mờ mịt, bước đường ghê sợ thì nhiều”.
Hình ảnh bãi cát dài và con đường cùng lại được miêu tả trong khoảnh khắc thời gian ngày tàn khi “mặt trời lặn”. Con đường cùng không chỉ “mờ mịt” và “ghê sợ” mà còn bị chặn lối, bị bủa vây:
Các hình ảnh ấy tượng trưng cho đường đời, con đường danh lợi nhiều gian nan, nguy hiểm.
Hình ảnh người đi đường trong bài thơ được khắc hoạ qua nhiều chi tiết chọn lọc. Bước đi thất thểu khó nhọc “Đi một bước như lùi một bước”. Nước mắt “lã chã rơi” vì tự thương mình. Khách đi đường vừa khó nhọc đi trên bãi cát mờ mịt vừa suy ngẫm. Lúc thì ước ao được “phép ngủ kĩ” của ông tiên. Lúc thì nghĩ về “hạng người danh lợi” đang tất tả ngược xuôi; và cảm thấy “người tỉnh thường ít mà người say vô số!”. Lúc thì thầm, hát khúc “đường cùng”; để rồi tự vấn lương tâm, tự trách mình: “Anh còn đứng làm chi trên bãi cát?”.
Qua hình ảnh người đi đường, nhà thơ giãi bày tâm sự bế tắc và chán ngán trên con đường công danh, con đường danh lợi. Tác giả tự trách, tự thương mình.
Nhân vật trữ tình trong”Sa hành đoản ca” lúc là “khách” (khách tử), lúc là “anh” (quân), lúc lại xưng là “ta” (ngã). Đó là sự hoá thân giữa khách thể và chủ thể trữ tình, để vừa tạo nên sự phong phú, uyển chuyển về giọng điệu, vừa để bộc lộ tâm sự, nói lên những suy ngẫm về hạng người danh lợi và con đường danh lợi xưa nay. Giọng thơ trở nên tâm tình, thổ lộ rất thấm thía. Các câu hỏi tu từ trong bài thơ tạo nên bao ám ảnh và suy ngẫm mang tính triết lí sâu sắc:
Bài “Sa hành đoản ca” cho ta thấy một phần nào con người và nhân cách của Cao Bá Quát. Là một bậc tài danh nhưng sinh bất phùng thời, không được trọng dụng, đã nếm trải nhiều cay đắng trên con đường công danh.
Cao Bá Quát muốn nhắn gửi hạng người danh lợi đang tất tả ngược xuôi bài học nhiều nước mắt mà ông đã trải qua và cảm nhận.
Phân tích Bài ca ngắn đi trên bãi cát – Mẫu 3Cao Bá Quát tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, Mẫn Hiên, người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc quận Long Biên, Hà Nội). Là người nổi tiếng học giỏi, có tài văn thơ và viết chữ Hán rất đẹp nên Cao Bá Quát được người đời tôn vinh là thánh (Thần Siêu, thánh Quát). Khí phách, bản lĩnh và hoài bão lớn lao của ông vượt khỏi khuôn khổ chật hẹp của chế độ phong kiến.
Cao Bá Quát sống ở giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX, khi nhà Nguyễn đã tiêu diệt Tây Sơn, thiết lập một chính quyền phong kiến chuyên chế hà khắc, sưu cao thuế nặng, không coi trọng tầng lớp trí thức Bắc Hà. Đây là thời kì có nhiều cuộc nổi dậy của nông dân;trong đó có cuộc khởi nghĩa ở Sơn Tây mà Cao Bá Quát đã tham gia. Thơ văn của ông thể hiện thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam trước nguy cơ bị xâm lược bởi thế lực thực dân phương Tây. Có người cho rằng hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân chính là bóng dáng của Cao Bá Quát.
Bài ca ngắn đi trên bãi cát được sáng tác sau những lần Cao Bá Quát vào kinh đô Huế thi hội. Hình ảnh những bãi cát trắng chạy dọc các tỉnh miền Trung khiến tác giả liên tưởng và hình dung ra con đường danh lợi nhọc nhằn đáng ghét mà ông buộc phải theo đuổi, cũng như sự ngột ngạt, bế tắc của xã hội đương thời. Một giả định khác là bài thơ ra đời khi Cao Bá Quát đã làm quan cho triều đình nhà Nguyễn, bắt đầu cảm thấy thất vọng về lí tưởng mà mình theo đuổi bấy lâu nay và âm thầm tìm kiếm một lí tưởng khác đúng đắn hơn.
Nội dung bài thơ phản ánh tình cảnh tù túng, không lối thoát của tầng lớp trí thức trong thời kì khủng hoảng của chế độ phong kiến. Đồng thời thể hiện niềm bi phẫn trước thực trạng xã hội, thái độ khinh bi phường danh lợi và khát khao của những kẻ sĩ chân chính muốn sống một cuộc sống thực sự có ý nghĩa.
Chủ đề bài thơ được tác giả thể hiện qua ba hình ảnh: bãi cát dài, con đường đi trên bãi cát và người đi trên bãi cát.
Bài thơ vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh bãi cát dài mênh mông không có điểm dừng, gợi ra một con đường bất tận, mờ mịt: Bãi cát lại bãi cát dài; … Bãi cát dài, bãi cát dài ơi. Hình ảnh bãi cát dài có ý nghĩa nghệ thuật độc đáo vì nó mang tính sáng tạo, không vay mượn từ văn học Trung Quốc như nhiều hình tượng thơ khác mà được lấy từ hiện thực là những cồn cát trắng hoang vu, rợn ngợp mà tác giả đã từng vượt qua nhiều lần trên con đường vào kinh ứng thí. Dải đất miền Trung, đặc biệt là hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị bề ngang rất hẹp, phía Tây là dãy Trường Sơn, phía Đông là biển. Trước mắt người đi chỉ thấy cát, núi và sóng biển mà thôi.
Cùng với hình ảnh bãi cát dài là hình ảnh những con đường: Đường bằng mờ mịt, Đường ghê sợ, đường cùng. Hai câu thơ: Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng, Phía nam núi Nam, sóng dào dạt vừa là hình ảnh thực, vừa mang ý nghĩa tượng trưng cho đường đời đầy gian nan, thử thách.
Tác giả cảm nhận rằng con đường vượt bãi cát dài có những nét tương đồng với con đường công danh khoa cử nhọc nhằn, thất bại thì nhiều, thành công thì ít, nhưng đã lỡ bước vào nên không biết tính sao đây?
Bản thân Cao Bá Quát đã nếm trải đủ mùi cay đắng của việc thi cử. Đi thi từ năm 13 tuổi (1822), đến lần thứ tư (1831) mới đậu cử nhân, lại bị đánh tụt xuống tận chót bảng. Sau đó ông còn lận đận thêm ba lần thi Hội nữa mà vẫn không đỗ. Ngay khi bước chân lên con đường danh lợi gắn với lí tưởng của tầng lớp Nho sĩ trong xã hội phong kiến, nhà thơ đã nhận thấy sự bế tắc và mâu thuẫn không giải quyết nổi. Nên đi tiếp hay dừng lại ? Dừng lại cũng không thể được. Còn đi tiếp thì không biết sẽ dẫn đến đâu ?
Hình ảnh con người đi trên bãi cát dài thật nhỏ bé và vất vả;
Người đi đường có nhiều loại, mỗi loại mang một tâm trạng khác nhau. Vô số kẻ say vì men thơm quán rượu thoảng từ đầu gió. Phải chăng hơi men thơm tượng trưng cho sự lôi cuốn, dẫn dụ ghê gớm của công danh? Trước ma lực ấy, liệu mấy người còn giữ được sự tỉnh táo, sáng suốt?
Phân tích Bài ca ngắn đi trên bãi cát – Mẫu 4Cao Bá Quát được ví như là ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam. Ở Cao Bá Quát ông không chỉ là người nổi tiếng học giỏi mà ông lại có biệt tài viết chữ rất đẹp nhưng lại là người luôn gặp những khó khăn trên con đường công danh. Và “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” được biết đến là những tâm niệm, những suy tư về con đường công danh, về chính cuộc đời của mình.
Bài thơ đặc sắc này đã được viết khi tác giả có dịp đi qua miền trung, bất chợt thấy đó là những bãi cát đã nảy lên ý tưởng, biết bao nhiêu cảm xúc dâng trào khiến tác giả không cầm lòng được. Và với mở đầu bài thơ ” Bài ca ngắn đi trên bãi cát là hình ảnh người đi như thật khó nhọc trên bãi cát đó.
Ta như thấy được những hình ảnh tả thực hiện ra, đó cũng như chính là hình ảnh về những bãi cát nối tiếp nhau, và nó nhu nối tiếp mà không biết điểm kết thúc, cứ thế miên man. Từ “lại” như được tác giả sử dụng thật đắt và cũng như càng thêm sự vô tận của những bãi cát. Có lẽ rằng ta như cũng chỉ thấy một màu cát trắng như vô tận mà thôi, với cái nắng có còn tạo ra nhiều viễn cảnh mà con người ta lại như có thể tưởng tượng nếu như đứng trong hoàn cảnh đó. Và chính câu thơ thứ hai lại càng làm độc giả như chứng kiến những bước chân của chính mình trên bãi cát đó vậy . Và chính với một biện pháp so sánh cũng như đã được tác giả sử dụng thật hợp lí ở đây, và đó chính là “đi một bước như lùi một bước”, và cũng chính bãi cát đó con người như nặng nhọc cất công đi nhưng càng khó khăn càng mệt nhọc bấy nhiêu. Và rồi dù trời đã tối, nhưng dường lữ khách như cũng đã vẫn đi, nước mắt rơi chính là những nhọc nhằn chứ thể kiềm lại được. Có thể nói rằng chính hình ảnh con người lúc đó thật lẻ loi, cô đơn và cũng thật nhỏ bé.
Có thể nói bãi cát đó hay chính con đường công danh dù mờ mịt nhưng dường như có rất nhiều người vẫn bị cuốn vào đó. Tất cả như đã thật bất lực trước những điều mà mình không thể chống cự lại được, và cho nên chính bởi thế mà Cao Bá quát chỉ biết trách bản thân, hay hơn nữa chính ông đang lấy cái cớ để tâm trí thoải mái hơn.
Có lẽ lúc này đây thì nhà thơ chỉ tiếc rằng bản thân mình không thể học được phép ngủ của tiên ông, và dường như ông cứ sống mà mặc kệ mọi danh lợi,sống một cuộc sống thanh cao, và cũng như đã bỏ qua mọi oán hận của thế gian. Dẫu biết con đường công danh là gian nan, dường như đó chính là phải “tất tả” . Dường như bãi cát như ẩn dụ cho ở nơi phường danh lợi, thế nhưng ông một mực vẫn cứ dấn thân vào, càng đi vào, càng thấy hoang mang, ông cũng như đã không biết lối ra cũng chẳng thể dừng lại. Và có thể thấy vất vả chính là vì chạy theo công danh,phải cố bước, nó như hơi men,như cũng đã cuốn con người vào đó, cho nên” người say vô số,tỉnh bao người?”. Nhà thơ như thật tỉnh táo, nhưng rồi tỉnh nhưng vẫn như chính với nỗi băn khoăn không biết con đường này thì phân vân rằng có nên đi tiếp hay không?
Lữ khách lúc này đây như cũng chỉ biết nhìn về bốn bề, nhưng xung quanh người chỉ thấy sóng, thấy được cả núi, nhưng chưa có một con đường nào để người lữ khách có thể bước đi cả. Và rồi như dẫu biết không có một lối đi không một định hướng ràng nhưng làm sao có thể bước tiếp, bước vững chãi trên một hướng đi mù mịt như vậy? Bãi cát ấy,như là một hình ảnh ẩn dụ nói về chính con đường mà bao người dấn thân vào ấy, nó như thật là mờ mịt thế,câu thơ cuối như dự báo một điều sẽ xảy ra. Và thông qua đó chính là một sự chắc chắn tác giả sẽ chọn cho mình một hướng đi riêng, chứ ông cũng sẽ không mãi mãi như thế cũng không có cách giải quyết.
Bài thơ như đã mang một lời tâm sự, như chính là một nỗi băn khoăn của một trí thức có tư tưởng, có hoài bão lớn. Người đọc như cảm nhận thấy rằng ở ông sẽ không bao giờ cam chịu bó buộc của cái chế độ phong kiến bất công thời ông đang sống. Và dường như cũng đồng thời cũng là báo hiệu cho sự thức tỉnh của một con người, một thế hệ. Và “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” như chính là một thành công của Cao Bá Quát đồng thời cũng chính là một bài thơ tiêu biểu thể hiện tâm sự sâu kín của tác giả.
Phân tích Bài ca ngắn đi trên bãi cát – Mẫu 5Nửa đầu thế kỉ XIX, ở Việt Nam, Cao Bá Quát được ca ngợi là con người đa tài: học giỏi, thơ hay, chữ đẹp. Người ta ngợi ca ông: “ Văn như Siêu quát vô tiền hán”. Quả thực, thơ ca của ông mang đậm một phong cách tư tưởng tự do, phóng khoáng với bản lĩnh kiên cường trước cường quyền. “ Sa hành đoản ca” – “ Bài ca ngắn đi trên bãi cát” là một trong số những bài thơ thể hiện rất rõ tư tưởng phong cách của nhà thơ.
“Sa hành đoản ca” được viết trong lúc đi thi Hội – khi ông đang muốn đem tài năng của mình ra để thi thố, thực hiện chí hướng, hoài bão giúp đời cứu nước. Cũng có ý kiến cho rằng bài thơ được làm trong thời gian tập sự ở bộ Lễ.
Bốn câu thơ đầu là hình ảnh bãi cát và người đi trên bãi cát:
Bài thơ mở ra với không gian và thời gian đặc biệt. Không gian “ Trường sa phục trường sa” – “Bãi cát dài lại bãi cát dài”, mênh mông hoang vắng đến rợn ngợp. Thời gian về chiều, nắng tắt. Nắng tắt và gió khiến bãi cát mênh mông không để lại vết đường mòn, khiến người đi đường dễ mất phương hướng. Trên nền không gian thời gian đó có người đi đường “ Đi một bước như lùi một bước”. Hình ảnh chân thực, giàu sức gợi tả. Cách ngắt nhịp 2-3 liên tiếp như vẽ ra bước đi đầy, trúc trắc. Mặt trời sắp lặn mà một ngày vẫn chưa đi hết quãng đường dài. Câu thơ gợi tả hình ảnh bãi cát mênh mông, bất tận, nóng bỏng, trắng xoá đến nhức mắt. Đó là hình ảnh thiên nhiên đẹp dữ dội, khắc nghiệt và cũng thể hiểu, bãi cát dài là con đường phải vượt qua để vào kinh thi Hương hay cũng chính là con đường công danh sự nghiệp mờ mịt phía trước. Người đi trên con đường ấy tuôn rơi những giọt lệ. Đó là nước mắt của đau khổ, một cõi lòng đầy oán hận.
Sáu câu thơ tiếp theo là tâm sự của người đi đường:
Tâm sự của kẻ đi trên bãi cát dài bật ra với lời tự oán trách mình đầy chua chát “ Không học được tiên ông phép ngủ”. Tác giả thấy giận mình vì không có khả năng như người xưa – không thể thờ ơ trước sự đời mà phải tự mình hành xác theo đuổi đường công danh. Cao Bá Quát bất hòa sâu sắc với thực tại cát bụi mờ mịt nhưng dứt khoát từ chối kiểu tiên ngủ. Đó là cái đáng nể trọng trong nhân cách kẻ sĩ lạc loài cô đơn giữa cuộc đời bế tắc.
Đối lập hình ảnh người đi đường là hình ảnh đông đảo phường danh lợi. Vì công danh, danh lợi mà con người phải bôn tẩu. Từ chuyện danh lợi, người đọc nhận ra trăn trở của tác giả về chuyện công danh. Công danh tự khi nào bị biến tướng, có sức mê hoặc ghê gớm đến con người. Danh lợi phải chi cũng chỉ là thứ rượu ngon dễ cám dỗ lòng người.Nó khiến con người say sưa tranh giành, hưởng thụ mà quên đi trách nhiệm với cuộc đời. Hai câu thơ tác giả tạo ra nhiều đối lập giữa số đông kẻ hám lợi tầm thường với một người cô đơn, lạc loài, bơ vơ trên con đường cát bụi. Từ đó ta nhận ra sự đối lập giữa tá giả và phường chạy theo danh lợi khẳng định nhân cách tự trọng của mình.
Trước những khó khăn trăn trở, người đi đường rơi vào bế tắc.
“ rường sa, trường sa nại cự hà”
Phân tích Bài ca ngắn đi trên bãi cát – Mẫu 6Cao Bá Quát là một trong những nhân tài hiếm hoi trong xã hội phong kiến triều Nguyễn. Ông là một người có bản lĩnh, có cá tính mạnh mẽ, là một nhà thơ có tài năng, được nhiều người ca ngợi. Thơ của ông hướng về xã hội phong kiến trì trệ với thái độ phê phán mạnh mẽ, phản ánh nhu cầu đổi mới xã hội Việt Nam. Thế nhưng, ông gần như không thể cống hiến được tài năng của mình bởi nhiều lần đi thi mà không đỗ. Bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” của ông là một trong những sáng tác của ông viết về con đường danh lợi gập ghềnh mà ông chán ghét nhưng buộc phải theo đuổi và sự bế tắc của xã hội phong kiến đương thời.
Bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” của Cao Bá Quát được viết theo thể hành, là một thể thơ tự do, tình chất phóng khoáng. Có lẽ chính vì thế mà nó đã bộc lộ hết được những suy tư, trăn trở của nhà thơ trước thời cuộc và chính cuộc đời của mình.
Mở ra trước mắt người đọc là hình ảnh của một bãi cát dài, trắng mênh mông, vô tận cùng hình ảnh người khách lữ hành đang lang thang vô định giữa miền cát vô tận ấy.
Bốn câu thơ đầu của bài thơ như là tiếng thở dài, tiếng khóc đầy nghẹn ngào của Cao Bá Quát trước cuộc đời đầy gian truân của mình. Mở ra trước mắt ông là hình ảnh chỉ mênh mông là cát ngút ngàn tầm mắt, không có một phương hướng hay chỉ đường. Đây là hình ảnh chân thực trong những lần ông vượt qua các tỉnh miền Trung để lên kinh đô thi Hội, nó đã in đậm vào tâm trí ông. “Bãi cát” hay chính là môi trường xã hội, con đường mưu cầu danh lợi mà ông đang đi, khó khăn, vất vả, cứ đi miết mà không tìm thấy đích đến. Câu thơ là một tiếng thở dài đầy ngao ngán “bãi cát lại bãi cát dài” của ông bởi đi bao lâu cũng chỉ thấy là cát mà chẳng thấy một lối ra, một ốc đảo xanh tươi để dừng lại ngơi nghỉ. Những bước chân nặng nề trên cát, “đi một bước như lùi một bước” tức là người đi như đang giậm chân tại chỗ, chẳng thể tiến lên thêm một bước nào.
Hai câu thơ như lời ẩn dụ cho con đường danh lợi ông đang cố theo đuổi với đầy những khó khăn, trắc trở, lại mênh mông chẳng thấy hướng ra. Bao lần ông lên kinh thi Hội là bấy nhiêu lần tìm lại sự thất vọng, mệt mỏi, chán chường. Bãi cát kia là con đường công danh ông theo đuổi hay cũng chính là cái vòng luẩn quẩn của xã hội phong kiến triều Nguyễn đang bế tắc, quẩn quanh?
Vậy mà giữa mênh mông biển cát ấy, vẫn có một người lữ khách đang mải miết bước đi. Mặt trời đã về núi, vậy mà người lữ khách kia vẫn chưa dừng bước chân, vẫn đang tiếp tục tiến về phía trước. Thế nhưng, người khách đường dài kia chẳng hề thấy vui vẻ, mà lại đau khổ khôn cùng “nước mắt rơi”. Dường như người lữ khách đang muốn nghỉ ngơi, muốn rời bỏ con đường đi mênh mông phía trước mà chẳng thể được.
Phải chăng đây chính là tâm trạng, hình ảnh của Cao Bá Quát trên con đường mưu cầu danh lợi của bản thân mình? Ông bước đi trên đó với sự cô đơn, đau khổ, sự chán ghét, lạc lõng, vô phương hướng mà lại chẳng thể dừng chân, rời đi, tìm một hướng đi mới. Ông mệt mỏi tới cùng cực trên con đường tìm kiếm công danh phù phiếm mà ông buộc lòng phải theo đuổi. Hình ảnh “bãi cát” dài nối tiếp nhau như là ẩn dụ cho con đường đời mù mịt, bất tận của chính tác giả “người lữ khách”. Người lữ khách ấy cứ mải miết đi, mải miết bước dù có mệt mỏi, kể cả khi bóng tối đã bao trùm.
Bốn câu thơ đầu là lời thở dài đầy ngao ngán của nhà thơ trước con đường công danh mà ông đang phải theo đuổi. Trên con đường ấy, ông như người lữ khách giữa biển cát mênh mông, cô đơn, lạc lõng vô cùng. Không chỉ cô đơn, mỏi mệt, lẫn trong đó là tiếng khóc nghẹn ngào, đầy sự bế tắc của ông về cuộc đời bể dâu, về công danh, lợi lộc, muốn tìm kiếm hướng ra nhưng lại mịt mờ, chẳng rõ.
Ai oán là thế, nhưng người lữ khách Cao Bá Quát lại không thể rời bỏ con đường mưu cầu danh lợi mà mình chán ghét được. Ông muốn được như Hạ Hầu Ấn, có thể vừa ngủ vừa đi, không cần nghỉ ngơi mà vẫn bước đi đều đặn. Bởi con đường của ông có quá nhiều chông gai, quá nhiều “non”, nhiều “suối”, ông phải băng qua, thật mệt mỏi biết bao. Ông cũng muốn được như “tiên ông ngủ”, đi mà vẫn ngủ, chẳng cần nghỉ ngơi. Đây cũng là lời oán hận của Cao Bá Quát với cuộc đời, với xã hội bất công luôn bắt ông phải cố gắng hết mình mà vẫn mãi chẳng đạt tới danh lợi phù phiếm kia.
Chiêm nghiệm lại cuộc đời từ xưa tới nay, ông nhận ra rằng, con người chưa bao giờ bỏ được danh lợi xa hoa ấy. Con người luôn phải “tất tả”, vội vã, bon chen để đạt tới mục đích cuối cùng trên con đường danh lợi phù phiếm và chính ông cũng đang như vậy.
Họ “tất tả”, ngược xuôi vì danh lợi cũng là điều đương nhiên thôi, bởi vì có ai cưỡng lại được công danh, lợi lộc được cơ chứ? Cũng như con người chẳng mấy ai có thể cưỡng được hương vị thơm của rượu ngon nơi “đầu gió” cả. Danh lợi như một chum rượu ngon, khiến bao người phải “say”, phải tìm tới. Có mấy ai tỉnh táo mà nhận ra sự phù phiếm của nó hay chăng?
Câu hỏi “tỉnh bao người” như là lời tự hỏi chính bản thân mình của Cao Bá Quát. Liệu ông có phải là người “tỉnh” trong “quán rượu” ngon kia chăng? Hay ông cũng chỉ là một trong vô số những người đang say trong hương rượu nồng? Câu hỏi cũng như lời tự thân bất lực của ông trước vòng xoáy danh lợi ông đang theo đuổi, bất lực trước cả thời cuộc, xã hội nữa.
Đến đây, người ta có thể nhận ra sự mệt mỏi, chán chường của ông trước cuộc đời như thế nào. Ông băn khoăn trước con đường mình chọn.
Hình ảnh “bãi cát” lại một lần nữa được nhắc tới trong bài thơ. Vẫn là tiếng thở dài đầy ngao ngán trước cuộc đời, trước con đường mình chọn đang mờ mịt không có lối ra. Ông tự hỏi “tính sao đây?”, tính sao trước cuộc sống đầy chán chường, bế tắc này? Đường đi “bằng” phẳng thì “mờ mịt”, không thấy hướng, còn những con đường gập ghềnh “ghê sợ” kia thì sao? Chúng cũng “đâu ít” gì? Cao Bá Quát tự hỏi chính mình, ông “tính sao” trước thời cuộc này, trước sự bế tắc của xã hội này?
Lời thơ như lời trách móc, giận dữ chính bản thân mình khi chính ông cũng đang lao đầu vào chính những cám dỗ ấy. Ông nhận ra cái vô nghĩa của những khoa thi cử đương thời, khi mà người tài lại chẳng được trọng dụng, chẳng thể giúp đổi mới cho một xã hội bảo thủ, trì trệ.
Và giờ đây, ông đứng giữa “bãi cát” mênh mông ấy, cất lên khúc ca về sự tuyệt vọng, chán chường của bản thân mình. “Khúc đường cùng” hay chính là khúc ca cuối cùng của Thánh Quát, con người cả một đời phải theo đuổi con đường công danh mà mình chán ghét, ghê sợ?
Chán chường, tuyệt vọng là thế, đến cuối cùng, ông vẫn phân vân tự hỏi với chính bản thân mình.
Người lữ khách – Cao Bá Quát đứng giữa bãi cát mênh mông nhìn ra xung quanh bốn phía. Phía bắc là núi non trùng trùng điệp điệp, phía nam là sóng cao biển sâu, chẳng hướng nào có thể vượt qua được. Một khung cảnh thiên nhiên đẹp hùng vĩ đến vậy nhưng lại nguy hiểm, trắc trở vô cùng. Người lữ khách chơi vơi giữa “bãi cát” mênh mông ấy chẳng thể tiến, chẳng thể lùi, chẳng biết nên đi về hướng nào. Phải chăng, Cao Bá Quát đang muốn hướng tới cái xã hội phong kiến tù túng, ngột ngạt trong bế tắc kia và cái con đường công danh ông theo đuổi cả đời cũng mãi mịt mờ, trắc trở như thế?
Câu cuối cùng của bài thơ là một câu hỏi, tác giả tự hỏi chính bản thân mình:
“Anh đứng làm chi trên bãi cát?”
Biết con đường ấy mịt mờ, đầy gồ ghề, lại bế tắc, chán ghét, vậy tại sao cả đời ông lại theo đuổi nó tới cùng? Câu hỏi ấy như là sự phân vân, bi phẫn đến tuyệt vọng của chính tác giả. Ông hiểu được sự bế tắc của xã hội, của con đường danh lợi ông theo đuổi, ông chán ghét nó tới cùng cực nhưng lại chẳng thể nào rời bỏ nó. Vậy rốt cuộc, ông đứng đây để làm chi, để chờ đợi điều gì? Một sự mâu thuẫn quá đỗi trong lòng của nhà thơ.
Bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” như là lợi tự bạch đầy chán chường của Cao Bá Quát trước con đường danh lợi tầm thường mà ông buộc phải theo đuổi xen lẫn trong đó là sự bất lực khi ông khao khát được đổi mới cuộc sống trong xã hội phong kiến triều Nguyễn bảo thủ, trì trệ, ngột ngạt, tù túng. Về nghệ thuật, bài thơ được viết theo thể hành, phóng khoáng, tự do, có sử dụng những hình ảnh với tính biểu tượng lớn. Cao Bá Quát cũng sử dụng rất tinh tế các điển tích, điển cố để làm diễn giải ý thơ của mình. Nhịp thơ tùy biến, nhanh chậm nhịp nhàng, đầy sáng tạo cũng là một phần góp lên thành công cho bài thơ khi miêu tả những suy tư của nhân vật trữ tình trên con đường danh lợi đầy trắc trở.
Bài thơ đã giúp cho chúng ta hiểu được sự chán ghét của một người trí thức đầy tài năng – Cao Bá Quát (Thánh Quát) với con đường mưu cầu danh lợi tầm thường trong một xã hội với những bế tắc, trì trệ, không lối thoát. Đây có lẽ chính là lý do lớn nhất giải thích vì sao mà ông lại đứng lên khởi nghĩa chống lại triều đình nhà Nguyễn. Bởi ông luôn khao khát được đổi mới cuộc đời của mình, đổi mới xã hội, được cống hiến cho nước nhà, được trở thành một con người có ích cho Tổ quốc.
Phân tích Bài ca ngắn đi trên bãi cát – Mẫu 7Cao Bá Quát là một trong những nhà thơ nổi tiếng sống trong một xã hội coi trọng người Nam hơn người Bắc. Chính điều này đã gây nên nhiều điều bất bình xảy ra trong nhà Nguyễn. Ông là người có bản lĩnh, có cá tính trong cuộc sống thời ấy. Bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát có thể được tác giả làm trong khi đi thi Hội, là thời điểm ông rất muốn thi thố tài năng, thực hiện ý chí của mình. Nó biểu lộ sự chán ghét của một người trí thức đối với con đường danh lợi tầm thường đương thời và niềm khao khát thay đổi cuộc sống.
Mới vào bài thơ ta thấy cụm từ “bãi cát” được lặp lại hai lần: “Bãi cát lại bãi cát dài”. Bãi cát ớ đây là hình ảnh được tác giả tả thực gợi lên một không gian khó khăn, dài thăm thẳm. Thông thường chúng ta đi trên cát rất khó, không giống như đi trên đường đất bình thường, chân bước tới cứ bị trượt về sau. Trên bãi cát ấy là một con đường rộng lớn, mờ mịt, rất khó mà xác định phương hướng như đứng ớ bên này nhìn qua bên kia chân trời. Đó không chỉ là ruột con đường thực, mà là con đường hiểu theo nghĩa tượng trưng cho một con đường xa xôi, mờ mịt. Để tìm được chân lí, tìm được cái đích thực sự có ý nghĩa cho cuộc đời thì con người phải vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ đầy thử thách.
Trên bãi cát ấy có hình ảnh một con người (tác giả), người đi trên bãi cát. Một con người nhỏ bé, lẻ loi, cô độc đi trên một bãi cát rộng, dài bao la, quanh quanh hình ảnh con người ấy. Bước chân của người đi cát rất khó khăn, như giậm chân tại chỗ “Đi một bước như lùi một bước”. Ta thấy được nỗi chán nản, bất mãn của tác giả khi thấy mình hành hạ thân xác để theo đuổi con đường công danh.
Người đi trên bãi cát ở đây lòng ai oán vì con đường công danh của mình mãi chưa tới đích, không đành lòng làm một kẻ “ngủ quên” để có cớ mà rời bỏ đường di.
Nỗi băn khoăn choáng váng lấp đầy tâm hồn. Và lần đầu tiên, người đã phân vân tự hỏi, vậy là thế nào, có nên đi tiếp, hay từ bỏ nó “Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt”. Nếu đi tiếp, cũng không biết phải đi như thế nào. Bởi vì, “Đường bằng thì mờ mịt – Đường ghê sợ thì nhiều!” vì thế, có lẽ đã đến bước đường cùng? Nỗi bế tắc và tuyệt vọng phù trùm lên cả người đi, cả bãi cát dài. Người đi chỉ còn có thể cất lên tiếng hát về con đường cùng của mình, về sự tuyệt vọng của mình.
Tóm lại bài thơ “Bài ca ngắn đi trên cát” được thể hiện theo cách đa chiều. Khi thì được miêu tả như một khách thể, khi thì lại như một người đối thoại. Thậm chí tác giả còn cho ẩn chủ thể. Mục đích là nhằm có những tâm trạng khác nhau, thái độ khi đứng trước những hoàn cảnh khác nhau. Nó biểu lộ sự chán ghét của một người trí thức đối với con đường danh lợi và niềm khao khát thay đổi cuộc sống.
Phân tích bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát – Mẫu 8Cao Bá Quát xưa nay nổi tiếng vì thơ hay, chữ đẹp, càng nổi tiếng hơn vì tư tưởng tự do, phóng khoáng, bản lĩnh kiên cường trước cường quyền, vì lối sống thanh cao mạnh mẽ. Người đời thường ca ngợi ông: Văn như Siêu Quát vô tiền hán. Một trong những tác phẩm hay nhất mà gửi gắm tư tưởng, ý chí của Cao Bá Quát đó chính là bài Sa hành đoản ca.
Mở đầu bài thơ, mở ra hình ảnh không gian mênh mông, hoang vắng đến rợn ngợp:
Người đi đường vất vả, trầy trật đi trên con đường cát cô đơn, mệt mỏi. Giữa thiên nhiên rộng lớn, hoang vu hình ảnh con người hiện lên nhỏ bé, cô đơn, đầy mệt nhọc. Hình ảnh bãi cát dài ấy là biểu tượng cho con đường công danh, sự nghiệp mà chính ông và bao nho sĩ đương thời tất tả theo đuổi, nhưng không phải ai cũng thành công và mỗi bước đi đều gặp sóng gió, cô đơn, khắc nghiệt: Lữ khách trên đường nước mắt rơi.
Sang đến những câu thơ tiếp theo, tác giả tiếp tục bộc lộ tâm sự u uất của mình:
Tác giả tự cảm thấy giận mình vì không có khả năng như người xưa, thờ ơ trước sự đời mà phải tự mình hành hạ mình trên con đường hoạn lộ. Từ đó, hé mở một tâm hồn thanh cao, có hoài bão, hùng tâm tráng chí, quyết không để mình trở thành kẻ nhàn rỗi, hèn hạ.
Từ chuyện danh lợi, tác giả nhận ra được rằng con đường mưu cầu công danh đã bị gắn liền với danh lợi, và lòng tham làm mờ mắt, làm say sưa vô số kẻ, đánh mất đi tâm hồn thanh khiết, cao đẹp của chính mình, bị bùa bả công danh làm cho mê hoặc. Cũng chính vì lẽ đó, người đi đường càng cảm thấy buồn, cô đơn hơn khi không có ai cùng mình đi trên con đường dài đầy mù mịt. Sự bế tắc trào ra dâng lên trong lòng thi sĩ khúc ca đường cùng đầy bi phẫn:
Advertisement
Khúc đường cùng, khúc cuồng ca bi phẫn tuyệt vọng. Thất vọng nhưng không đẻ thói đời đê mạt, đó là hình ảnh người đi đường trong khổ thơ kết. Câu hỏi cuối bài là câu hỏi đầy đau đớn, nhức nhối, hỏi chính lòng mình.
Bài ca thể hiện niềm thất vọng, bi phẫn của nhà thơ trước đường đời trắc trở và bế tắc vô vọng, phản ánh cảm quan của CBQ về một thời đại đen tối lúc bấy giờ. Bằng cách xây dựng hình tượng đặc sắc, ngôn ngữ hàm súc, giàu sức gợi, bài ca ngắn đi trên bãi cát thực sự đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Phân tích bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát – Mẫu 9Cao Bá Quát là một nhà nho nổi tiếng học giỏi và viết chữ đẹp nhưng rất lận đận về đường công danh. Sống trong cảnh chính quyền phong kiến hà khắc, chuyên chế, áp bức dân lành, ông cũng như những người khác thuộc tầng lớp trí thức, dù có tài nhưng cũng không được coi trọng. Khí phách, bản lĩnh và hoài bão lớn lao của ông đã khiến ông trở nên chán ghét những khuôn khổ bó hẹp của chế độ phong kiến hủ bại.
Các tác phẩm của ông thể hiện sự bất mãn đối với những bất công, ngang trái trong cuộc đời và đối với chế độ đương thời. “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” là một tác phẩm được sáng tác sau khi tác giả đi qua miền Trung, nhìn những bãi cát dài trắng chạy dài vô tận. Đó là bãi cát – hay cũng chính như cuộc đời, như đường công danh mà những người trí thức lúc bấy giờ vẫn đang theo đuổi, nhọc nhằn, mờ mịt. Mở đầu bài thơ là hình ảnh người đi khó nhọc trên bãi cát:
Những bãi cát dài cứ nối tiếp nhau không bao giờ ngừng nghỉ, tựa như chẳng thấy điểm kết thúc. Bốn bề đều là một màu cát trắng, núi và biển. Chỉ thấy màu nắng, màu cát mà thôi. Trong khung cảnh vắng lặng ấy, có một người đang lê từng bước khó nhọc, “đi một bước như lùi một bước”. Giữa thiên nhiên mênh mông, giữa bốn bề cát trắng, con người thật nhỏ bé, cô độc biết bao.
Mặt trời đã lặn, nhưng làm sao có thể dừng bước vì giữa biển cát, biết tìm đâu ra chỗ ngủ cho đêm nay. Một con đường đi, cứ đi, đi mãi mà chẳng thể dừng lại, mà tiếp cũng chẳng biết bao giờ sẽ tới nơi. Hình ảnh con đường trên cát bất tận, hình ảnh người lữ khách nhỏ bé bất lực giữa thiên nhiên, hay đó chính là con đường công danh mà Cao Bá Quát, cũng như rất nhiều những trí sĩ đương thời đang dấn thân vào.
Một con đường đầy gian nan, thử thách, cay đắng, mệt nhọc. Ngay chính nhà thơ, cũng rất lận đận với con đường thi cử, công danh, rất nhiều lần bị đánh tụt hạng, đánh trượt trong các khoa thi nhưng cũng chỉ biết chấp nhận. Bất lực, bế tắc, nhà thơ chỉ biết tự oán:
Nhà thơ chỉ tiếc mình không thể học được phép ngủ của tiên ông, cứ sống mà mặc kệ mọi danh lợi, mọi oán hận của thế gian. Mắt không thấy thì tâm không đau. Nhìn người, nhìn mình. Biết con đường công danh là gian nan, là phải “tất tả” ở nơi phường danh lợi, thế nhưng vẫn cứ dấn thân vào. Rồi càng đi vào, càng thấy hoang mang, không biết lối ra cũng chẳng thể dừng lại. Vì công danh phải vất vả.
Vì công danh phải cố bước. Bởi công danh như hơi men rượu, lôi cuốn, hấp dẫn người ta, như hơi men trong gió từ quán rượu, cũng đủ làm người ta say trong mê muội. Vô số người tìm đến rượu, bị rượu hấp dẫn, rồi say trong đó không biết lối ra. Có biết bao người say, có được bao nhiêu người tỉnh táo để không bị cái danh lợi mê hoặc? Nhà thơ tỉnh, nhưng rồi tỉnh với nỗi băn khoăn không biết con đường này có nên đi tiếp hay không? Người đi trên bãi cát đã quá cùng cực, chán ngán, tuyệt vọng:
Người lữ khách loay hoay, cô độc, chỉ biết hỏi nơi bãi cát vô tri xem phải tính sao với con đường khó khăn này. Đường bằng thì mờ mịt, mà đường gập ghềnh ghê sợ thì cũng đâu phải ít. Đường công danh là thế, biết bao chông gai, cạm bẫy luôn rình rập. Làm thế nào để được sống như mình muốn trên con đường ấy đây? Một cảm giác tuyệt vọng, bất lực trào dâng trong lòng người khách độc hành, chỉ biết cất lên khúc hát “đường cùng” để bày tỏ tâm trạng.
Nhìn bốn bề, chỉ thấy sóng, thấy núi, chưa có một con đường nào để người lữ khách có thể bước đi cả. Nhưng chẳng lẽ đứng mãi nơi cồn cát ấy? Anh còn đứng làm gì trên bãi cát ấy. Hãy đi đi, băng qua núi, băng qua biển, có gian truân, có vất vả nhưng có lẽ sẽ không còn mờ mịt như việc anh đi cứ hoài trên bãi cát kia. Câu hỏi cuối, như dự báo một hành động dứt khoát lựa chọn rời khỏi đường công danh, mà lựa chọn một con đường, một lí tưởng cho riêng mình.
Bài thơ là lời tâm sự, băn khoăn của một trí thức có tư tưởng, có hoài bão lớn, không cam chịu bó buộc trong những gò bó của chế độ phong kiến bất công, đồng thời cũng là báo hiệu cho sự thức tỉnh của một con người, một thế hệ.
Phân tích bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát – Mẫu 10Câu thơ nhắc đến Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát thơ văn của hai ông rất hay nên người đời ca ngợi, tôn sùng là “Thần Siêu thánh Quát”. Thơ văn của thi sĩ họ Cao bộc lộ thái độ phê phán triều đình phong kiến bảo thủ, trì trệ và chứa đựng những tư tưởng khai sáng, phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX. “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” là một trong những sáng tác thể hiện tâm tư, tình cảm của tác giả trước thực tế xã hội đó.
Bài thơ “Sa hành đoản ca” được viết theo thể loại thơ cổ thể, thể loại văn học của Trung Quốc du nhập vào Việt Nam. Có thể kể đến các tác phẩm nổi tiếng khác cũng được viết theo thể loại cổ này như “Phóng cuồng ca” của Trần Tung, “Côn Sơn ca” của Nguyễn Trãi hay “Long thành cầm giả ca” của Nguyễn Du.
Hoàn cảnh sáng tác bài thơ khi Cao Bá Quát đỗ cử nhân năm 1831 tại trường thi Hà Nội. Sau đó nhiều lần ông vào kinh đô Huế đi thi nhưng không đỗ. “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” có thể được hình thành trong những lần Cao Bá Quát đi thi hội ấy, qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng như Quảng Bình, Quảng Trị.
Nhưng lại có ý kiến của giáo sư Vũ Khiêm cho rằng bài thơ này được sáng tác khi họ Cao làm quan cho nhà Nguyễn và bắt đầu cảm thấy chán nản, bế tắc. Dù là sáng tác trong hoàn cảnh nào thì ta cũng thấy hiện lên trong bài thơ là hình ảnh của một con người chán chường, thất vọng, không tìm ra lối thoát trong cuộc đời.
Nổi lên trên bài ca ngắn là hình ảnh bãi cát dài tiếp nối tiếp “Bãi cát dài lại bãi cát dài”. Bãi cát là hình ảnh thực là con đường dài rộng mênh mông, không xác định được phương hướng. Nó cũng là một hình ảnh mang ý nghĩa biểu trưng đó là con đường đời, con đường công danh mịt mờ, xa hút. Con đường này bắt buộc những người muốn tìm thấy chân lí đích thực của cuộc đời phải trải qua biết bao gian nan, cực khổ. Hình ảnh con người hiện lên với những bước đi thật vất vả, mệt mỏi.
Con người thật cô đơn, nhỏ bé giữa không gian bao la, rộng lớn như lạc lõng không xác định được hướng đi giữa miền cát sa mạc với những bước trầy bước trật khó khăn, nặng nề đi mà như vẫn giậm chân tại chỗ “Đi một bước như lùi một bước”. Tuy nhiên đôi chân bước đi không ngừng nghỉ, đi trong đau khổ và tủi hờn “nước mắt rơi” nhưng cứ đi mãi mà chẳng biết điểm dừng.
Con người trong cuộc hành trình này cũng mang tính biểu trưng. Một con người cô đơn, cô độc đi tìm cho mình chân lí, mục đích đích thực giữa cuộc đời mờ mịt, không xác định. Hình ảnh ấy khiến ta liên tưởng đến “những con chim ưng”, “con chim báo bão” hay “Trái tim Đankô” trong sáng tác của M. Goocki.
Bãi cát dài bất tận và con người cơ cực bước đi trên con đường, đó cũng chính là con đường công danh mà người trí sĩ đương thời dấn thân vào. Con đường hoạn lộ ấy khiến cho nhà thơ lận đận nhiều lần bị đánh tụt hạng, đánh trượt trong các khoa thi nhưng cũng chỉ đành chấp nhận mà cất lên ai oán:
Hai câu đầu tác giả tự oán tự trách mình tại sao lại phải vì danh lợi mà phải để mình “Trèo non, lội suối, giận khôn vơi”. Bốn câu sau nói về “phường danh lợi” với những con người “tất tả”, bon chen, tranh giành một bức tranh hiện thực xã hội hiện ra trước mắt.
Thật sắc sảo trong cách nhìn và tỉnh táo trong cách phán xét, nhà thơ chua xót nhận ra “người say vô số tỉnh bao người” thì ra danh lợi cũng giống như một thứ rượu ngon khiến cho người ta say ngây ngất, khiến cho bao người theo đuổi. Câu hỏi ẩn dụ như vừa để hỏi cũng vừa để trả lời với sự khẳng định “người say vô số” con người mấy ai có thể thoát ra khỏi vòng danh lợi, những cám dỗ vật chất.
Hình ảnh bãi cát dài một lần nữa được hiện lên qua câu thơ “Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!” theo phép “tiền hậu tương ứng” như gợi lên những băn khoăn, trăn trở trong lòng thi sĩ, những câu hỏi liên tiếp được đặt ra:
Nhà thơ tự hỏi lòng mình “tính sao đây” nên đi tiếp hay dừng lại. Nếu đi tiếp có thể ông cũng trở một trong những “người say vô số” nhưng đi tiếp cũng chẳng biết nên đi thế nào bởi “đường bằng mờ mịt”, “đường ghê sợ còn nhiều”. Sự bế tắc, nỗi tuyệt vọng đã che khuất cả bóng người đi trên bãi cát dài. Lữ khách lúc này chỉ còn biết cất lên khúc hát “đường cùng” mà quyết định “Anh đứng làm chi trên bãi cát?”.
Hình ảnh “núi muôn trùng” và “sóng dào dạt” tượng trưng cho những khó khăn, chông gai phía trước. Tư tưởng và nhân cách cao rộng của Cao Bá Quát là ở đây, tác giả hiểu được sự vô nghĩa của con đường công danh. Ông nhận ra những chân lí, lí tưởng mà bấy lâu nay ông dấn thân ông theo đuổi trở nên vô ích. Ông coi thường danh lợi, ông khinh miệt những kẻ say mà không biết tỉnh.
Một đời ông muốn cống hiến tài năng của mình cho đất nước nhưng ông đã nhận ra rằng con đường làm quan để gúp đời không hề dễ như ông tưởng. GS Thanh Lãng nhận xét: “Tư tưởng độc lập của Cao Bá Quát khác với cái chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ. Ông Trứ lập nghiệp là để giúp vua, để chu toàn quân thần; còn ông Quát mang cái mộng thay đổi thời cuộc và chuyển vần số mệnh” chính vì vậy cuối cùng người trí sĩ yêu nước ấy chọn cho mình con đường quay về, sau này ông cùng với các sĩ phu yêu nước tổ chức nổi dậy khởi nghĩa tại Mỹ Lương thuộc vùng Sơn Tây chống lại triều đình và đã hi sinh.
“Bài ca ngắn đi trên bãi cát” với những tâm tư, tình cảm của tác giả được thể hiện một cách đa chiều. Có khi được miêu tả như một khách thể, khi lại là người đối thoại, chủ thể khi ẩn khi hiện để biểu lộ những tâm trạng, trạng thái cảm xúc khác nhau trước những hoàn cảnh khác nhau với những câu thơ dài ngắn linh hoạt. Cách gieo vần có cả vần bằng và vần trắc, giọng điệu và nhịp thơ cũng rất phong phú tạo điều kiện bộc lộ cho những suy tư, trăn trở của tác giả.
Bài thơ đã thể hiện được con người cá nhân của ông Quát trước bối cảnh thời đại. Ông luôn chán ghét thực tại xã hội phong kiến bon chen danh lợi và luôn mang trong mình một niềm khao khát thay đổi cuộc sống. “Cao Bá Quát là một nhà thơ rất có bản lĩnh.
10 Dàn Ý Bài Văn Tả Anh Chị (Lớp 5) Hay Nhất
Dàn ý bài văn tả anh chị số 2
I. Mở bài: Giới thiệu người cần tả
II. Thân bài
1. Tả bao quát
– Chị em bao nhiêu tuổi?
– Chị em học ở đâu?
– Chị em học trường gì?
– Em thương chị em như thế nào?
2. Tả chi tiết
a. Tả hình dáng
– Dáng người cao, thon gọn cao 1m6
– Gương mặt đầy đặn, mũi cao, môi trái tim xinh đẹp
– Mái tóc dài đen mượt, khi làm việc nhà ở thường buộc tóc gọn sau gáy.
– Chị ăn mặc rất giản dị. Khi đi học chị thường mặc áo sơ mi. Ở nhà chị mặc đồ bộ cho tiện làm việc nhà.
– Chị có đôi mắt đen long lanh rất đẹp. Mỗi khi chị bảo ban em, ánh mắt ấy rất dịu dàng và thân thiện.
b. Tả tính tình
– Chị là người chu đáo, chỉnh chu trong công việc
– Chị học rất giỏi, luôn được ba mẹ và thầy cô yêu thương
– Chị có tính tình rất ôn hòa, nhã nhặn
– Chị luôn biết quan tâm đến mọi người trong gia dình và mọi người xung quanh
– Chị là người luôn nổ lực và biết vươn lên trong cuộc sống
III. Kết bài: nêu cảm nghĩ về chị em
Chị em là một người hết sức đặc biệt. Chị là người luôn quan tâm chăm sóc em, em rất yêu chị của em.
Dàn ý bài văn tả anh chị số 4Dàn ý bài văn tả anh chị số 2
I/ Mở bài
II/ Thân bài
a. Giới thiệu chung về chị
Chi gái của em năm nay đang là học sinh lớp 12 của một trường chuyên trong tỉnh.
Bố mẹ ưu ái đặt cho cô con gái đầu lòng một cái tên rất hay: Nguyễn Tường Vy- tên loài hoa mỏng manh nhưng vô cùng đẹp.
b. Miêu tả ngoại hình
Chị Vy cao ráo, mang dáng hình phổng phao của thiếu nữ mới lớn.
Mái tóc đen mượt mà lúc thì được thả ngang vai dịu dàng, lúc thì được cột đuôi ngựa cá tính.
Khuôn mặt khả ái với nước da trắng hồng lấm tấm vài nốt tàn nhang.
Đôi mắt tròn to lúc nào cũng ánh lên tia sáng của sự thông minh, lanh lợi. Người ta nói “Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn quả không sai”. Nhìn vào mắt chị, em có thể cảm thận thấy sự hiền lành, thật thà, gợi thương gợi nhớ.
Hàng lông mi đen, dài và cong vút.
Chiếc mũi dọc dừa tô điểm thêm cho gương mặt thêm hoàn hảo.
Đôi môi trái tim lúc nào cũng đỏ hồng như tô son.
c. Miêu tả tính cách
Ở nhà chị Vy là người con ngoan ngoãn vâng lời cha mẹ. Ở trường chị là học sinh xuất sắc được nhiều người ngưỡng mộ.
Tuổi mười tám, đôi mươi đem lại cho chị sức sống căng tràn. Chị năng động, nhiệt huyết tham gia hoạt động do trường hoặc địa phương tổ chức.
Đối với em, chị Vy là một người chị tốt. Chị dạy em học bài, chị lo lắng cho em từng bữa ăn, giấc ngủ mỗi khi bố mẹ đi công tác xa nhà.
Chị là người chu đáo và biết quan tâm đến người khác. Sau giờ học chị còn giúp bố mẹ quét nhà, nấu cơm, giặt quần áo.
Đối với bạn bè, chị thân thiện hòa đồng. Hễ có ai gặp khó khăn, chị không nề hà lảng tránh mà nhiệt tình giúp đỡ. Vì thế chị được mọi người yêu quý và nể phục.
III/ Kết bài
Nêu cảm nghĩ của em về chị
Em rất tự hào vì có một người chị gái như chị Vy. Năm sau, chị Vy học đại học phải xa nhà, em sẽ nhớ chị nhiều lắm.
Dàn ý bài văn tả anh chị số 4
Dàn ý bài văn tả anh chị số 3Dàn ý bài văn tả anh chị số 4
I.Mở bài
Dẫn dắt giới thiệu người mà mình định miêu tả.
Trong nhà, em thân nhất là chị của em. Vì hai chị em không cách nhau nhiều tuổi, lại hợp tính cách nên hai chị em luôn gắn bó với nhau như hình với bóng.
II.Thân bài
1.Tả ngoại hình
Dáng người chị dong dỏng cao, cân đối, hơn em hẳn một cái đầu.
Chị rất giống mẹ về ngoại hình, ngoại hình của một người phụ nữ hiền hậu đúng mực.
Mái tóc ngắn đen mượt, ngang vai được buộc lên gọn gàng. Em rất thích chải tóc cho chị vì tóc chị luôn có mùi thơm của thảo mộc rất dễ chịu.
Gương mặt trái xoan với làn da trắng hồng như da em bé.
Đôi lông mày lá liễu, chiếc mũi không cao lắm nhưng khá thẳng.
Đôi mắt to, màu nâu, long lanh như hai viên ngọc, lại có hai mí rõ ràng. Đặc biệt đôi mắt ấy biết cười khiến gương mặt chị lúc nào cũng rạng rỡ.
Lông mi dài, lúc nào cũng cong vút lên.
Hai má núm đồng tiền duyên dáng khiến nhiều người phải ghen tị.
Khuôn miệng nhỏ như nụ hoa hồng chúm chím. Mỗi khi chị cười lại để lộ ra hai hàm răng trắng muốt.
Đôi bàn tay nhỏ nhắn, thon dài có đủ cả mười hoa tay. Vì thế chị viết chữ rất đẹp. Chị đã giành nhiều giải cao trong các kì thi của tỉnh, thành phố.
2. Tả về tính cách và kỉ niệm
Trái ngược với vẻ ngoài hiền dịu, chị rất nghịch ngợm và còn rất khỏe do được học võ từ bé.
Mẹ kể, hồi bé chị từng trèo tường trộm ổi, đi trêu chó hàng xóm, cuối cùng các bạn phải đến tận nhà để “kể tội”.
Cuối tuần, hai chị em thường rủ nhau đi chơi, gắn bó với nhau như hình với bóng.
III.Kết bài
Khẳng định lại tình cảm của bản thân
Em rất yêu quý chị của em. Chỉ còn một năm học nữa là chị sẽ bước chân vào giảng đường đại học. Vì vậy, hai chị em sẽ không còn nhiều thời gian để chơi đùa cùng nhau. Em sẽ luôn trân trọng từng giây phút này để chị không chỉ là một người chị mà còn là một người bạn tri kỉ, gắn bó.
Dàn ý bài văn tả anh chị số 10Dàn ý bài văn tả anh chị số 3
I. Mở bài: Giới thiệu về người mà mình tả (chị gái). Người đó có ấn tượng gì với mình: Là người luôn sẻ chia với mình, Không chỉ là chị mà còn là 1 người bạn.
II. Thân bài:
* Tả hình dáng, đặc điểm:
– Dong dỏng cao
– Nước da trăng hồng
– Mái tóc dài suôn mượt luôn được buộc cao trông rất năng động
– Đôi mắt đen láy, là nơi chưa bao câu động viên, sẻ chia với em mỗi khi em buồn
– Bàn tay búp măng nấu ăn, giặt quần áo
* Tính tình:
+ Hiền lành, nhân hậu
+ Vui tính, đảm đang, dễ thương,
* Hoạt động:
– Chị thường hay nấu cơm cho cả nhà. Ai cũng khen khéo tay
– Chị đi học về là giặt giũ, quét nhà,…
– Mỗi lần em ôm chị là người chăm sóc, mỗi lần chị đặt tay lên trán em thì lại như có 1 luồng điện yêu thương chạy qua người làm em khỏe lại.
– Chị dạy cho học, dạy cho em những điều hay trong cuộc sống
– Mỗi lần buồn chị luôn động viên chia sẻ
* Kỉ niệm với chị: Làm chị buồn nhưng chị không giận
III. Kết bài: Cảm nghĩ về chị: Yêu chị, sẽ không bao giờ làm chị buồn
Dàn ý bài văn tả anh chị số 8Dàn ý bài văn tả anh chị số 10
I. Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu về anh trai .
Trong gia đình, em là con út vì vậy em luôn nhận được tình thương yêu, sự quan tâm của mọi người. Đặc biệt là từ anh của em.
1. Giới thiệu khái quát
Người anh trai yêu quý của em tên Quân.
Anh hiện đang là sinh viên năm nhất Đại học thủy lợi.
Với em, anh giống như cha, luôn yêu thương, chở che cho em.
2. Tả ngoại hình
Anh của em rất đẹp trai. Anh có dáng người cao ráo, hơi gầy.
Anh có màu da hơi xạm đen một phần vì giống bố, một phần vì nắng.
Anh thừa hưởng đôi mắt tinh anh của bố và sống mũi cao của mẹ. Cùng với nụ cười rạng rỡ, khiến anh trông thân thiện, dễ gần.
Giọng anh hơi khàn, khá trầm nhưng lại đem đến cho người khác cảm giác ấm áp….
3. Tả về tính cách và tình cảm của anh với mình
Anh là một người con hiếu thảo. Anh luôn cố gắng giúp đỡ bố mẹ việc nhà. Anh chăm sóc em rất chu đáo khi bố mẹ bận rộn…..
Anh là một học sinh giỏi. Anh luôn đạt kết quả cao ở lớp, được thầy cô yêu quý, bạn bè tin tưởng
Anh là một người cởi mở hòa đồng. Anh luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người xung quanh khi họ gặp khó khăn.
Anh rất yêu thương em. Anh luôn nhường em những thứ em thích, chă sóc em rất chu đáo. Mỗi khi em buồn, anh lại chọc cho em cười, mua kẹo cho em. Anh cũng hay giúp đỡ em trong học tập, giúp em tiến bộ.
III. Kết bài .
Thể hiện tình cảm của bản thân .
Em rất yêu quý anh Quân. Với em anh chính là một tấm gương để em học tập và noi theo. Bây giờ dù rất ít gặp anh nhưng tình cảm anh em vẫn mãi bền chặt.
Dàn ý bài văn tả anh chị số 8
Dàn ý bài văn tả anh chị số 7Dàn ý bài văn tả anh chị số 8
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
– Người được miêu tả là ai? (Anh Đức).
– Có quan hệ với em như thế nào? (Anh trai em).
– Được tả trong hoàn cảnh nào? (Đi bộ đội về thăm nhà).
2. Thân bài:
* Tả anh trai:
+ Hình dáng bên ngoài:
– Độ tuổi.
– Tầm vóc (cao, thấp), dáng người (mập mạp hay săn chắc… )
– Màu da (trắng, đen… ).
– Gương mặt (tròn hay vuông chữ điền), mắt, mũi, miệng…?
– Mái tóc (đen, nâu, dày, thưa… ).
* Lưu ý: Chọn những chi tiết nổi bật, dễ nhớ.
+ Tính nết:
– Giản dị, vui vẻ, dễ gần.
– Thông minh, hiếu động.
– Có kỉ luật…
+Tài năng:
– Chơi đàn và hát rất hay.
.- Khéo léo, cẩn thận
3. Kết bài: Nêu cảm nghĩ về anh em
Dàn ý bài văn tả anh chị số 5Dàn ý bài văn tả anh chị số 7
I. Mở bài: giới thiệu người cần tả
Gia đình e gồm có bốn người, ba mẹ, em và chị của em. Gia đình e rất hạnh phúc và thương yêu em. Ba mẹ em là nông dan nên rất đổi bình dị và thân thương. Ba mẹ luôn làm lụng vất vả để lo cho chị em của em. Chị em là một sinh viên đang học tren thành phố. Chọ cũng là người xa nhà, sống thiếu thốn tình thương của ba mẹ, lâu lâu chị mới về quê thăm gia đình. Chính vì thế mà em rất yêu của của em.
Chị em là một người hết sức đặc biệt. chị là người luôn quan tâm chăm sóc em, em rất yêu chị của em
Dàn ý bài văn tả anh chị số 5
Dàn ý bài văn tả anh chị số 6
Bố mẹ em có hai người con: chị Ngân và em
Em rất yêu thương chị
Không chỉ là chị mà còn là 1 người bạn.
Dàn ý bài văn tả anh chị số 5
a. Tả bao quát
b. Tả chi tiết
* Tả hình dáng
Dáng người cao, thon gọn, mảnh mai
Gương mặt đầy đặn, mũi cao, môi trái tim xinh đẹp.
Chị gái của em có đôi bàn tay búp măng xinh xắn
Mái tóc dài đen mượt, khi làm việc nhà ở thường buộc tóc gọn sau gáy.
Chị ăn mặc rất giản dị. Khi đi học chị thường mặc áo dài trắng. Ở nhà chị mặc đồ bộ cho tiện làm việc nhà.
Chị có đôi mắt đen long lanh rất đẹp. Mỗi khi chị bảo ban em, ánh mắt ấy rất dịu dàng và thân thiện.
* Tả tính tình
Chị là người chu đáo, chỉnh chu trong công việc
Chị siêng năng từ nhỏ, học được ở bà và mẹ bao điều tốt đẹp: dịu dàng, chu đáo, ngăn nắp, khéo léo
Chị có tính tình rất ôn hòa, nhã nhặn.
Chị luôn biết quan tâm đến mọi người trong gia dình và mọi người xung quanh
Chị là người luôn nổ lực và biết vươn lên trong cuộc sống
3. Kết bài: Chị em là một người hết sức đặc biệt. Chị là người luôn quan tâm chăm sóc em, em rất yêu chị của em.
Dàn ý bài văn tả anh chị số 9Dàn ý bài văn tả anh chị số 6
I. Mở bài: giới thiệu về anh trai của em
Ví dụ:
Gia đình em gồm 4 thành viên là ba mẹ, em và anh của em. Hai anh em của em rất yêu thương nhau và chăm sóc lẫn nhau. Từ nhỏ, anh của em chăm sóc em rất chu đáo và cẩn thận, anh của em rất yêu thương em.
II. Thân bài: kể về anh trai của em
1. Ta bao quát về anh của em
– Anh của em năm nay 16 tuổi
– Anh của em tên Hoàng
– Anh của em là người anh mẫu mực
2. Tả chi tiết về anh trai của em
a. Tả chi tiết về ngoại hình của anh trai em
– Anh trai em cao 1m65
– Anh trai em rất đẹp trai
– Anh trai em có mái tóc đen và mượt
– Mũi anh em rất cao
– Mắt anh long lanh
– Miệng của anh lúc nào cũng cười chúm chím
– Anh em ăn mặc rất phong cách
b. Tả chi tiết về tính tình của anh trai em
– Anh trai em rất thân thiện
– Anh em rất hiền và dễ mến
– An hem thích đá bóng và chơi game
– Anh em thích ăn mặc phong cách
c. Tả về hoạt động của anh trai em:
– Anh trai em đi học mỗi sáng
– Mỗi khi rảnh an hem thường đi đá banh hoặc chơi game
– Anh thường dạy em học bài
– Anh cГІn giГєp ba mбє№ lГ m cГґng việc nhГ
– Anh còn giúp đỡ nhiều bạn bè trong công việc và cuộc sống
III. Kết bài: nêu cảm nghĩ của em về anh trai của em
Anh trai em là một ngừi anh trai mẫu mực. em rất thương và yêu quý anh trai của em.
Dàn ý bài văn tả anh chị số 1Dàn ý bài văn tả anh chị số 9
I. Mở bài: giới thiệu nhân vật em định tả
Nhà em sống ở quê, cuộc sống giản dị và chan hòa. Nhà em có 4 người là ba mẹ, anh của em và em. Gia đình em rất yêu thương và chăm sóc nhau. Ba me luôn yêu thương và dạy chỗ chúng em nên em và anh rất yêu ba mẹ. Anh em từ nhỏ đã học rất giỏi mà từ nhỏ đến giờ anh đều xa nhà để lên thành phố học, cuối tuần mới về nhà. Chính vì thế mà ba mẹ rất yêu thương anh, em cũng vậy.
– Anh em nay năm 17 tuổi, học lớp 12
– Anh em cao 1m7
– Anh rất thương em, mỗi khi về nhà là mua bánh cho em
– Anh học rất giỏi, cả gia đình đều tự hào về anh.
– Anh có dáng người cao ráo
– Gương mặt đầy đặn và rất đẹp trai
– Anh có mái tóc mượt và để tóc rất mốt
– Anh ăn mặc rất giản dị nhưng rất hiện đại
– Anh có đôi mắt long lanh, hiền hòa
– Đôi môi dày nhưng rất đẹp và quyến rũ
– Mũi anh rất cao
b. Tả tính tình và sở thích
– Anh luôn yêu thương em và ba mẹ
– Luôn ân cần chăm sóc và dạy em học
– Luôn giúp đỡ việc nhà của mẹ khi rảnh rỗi
– Anh rất siêng học
– Anh thích mang giày, mặc áo sơ mi
– Anh rất thích ăn cá rán
– Tính tình anh ôn hòa, dễ chịu
– Luôn luôn tận tình giúp đỡ những ai khó khan
– Anh đá banh giỏi, hát hay, chơi đàn giỏi,….
III. Kết bài: nêu cảm nghĩ của em về anh trai
– Em rất quý và yêu mến anh
– Em sẽ cố gắng nỗ lực để được học giỏi như anh.
Đăng bởi: Hoàng Tuân
Từ khoá: 10 Dàn ý bài văn tả anh chị (lớp 5) hay nhất
Tập Làm Văn Lớp 2: Viết 4 – 5 Câu Về Một Bạn Ở Trường Em (12 Mẫu) Những Bài Văn Mẫu Lớp 2
Viết 4 – 5 câu về một bạn ở trường em
Người bạn thân thiết nhất ở trường của em là Hoài Anh. Dáng người của bạn khá nhỏ nhắn. Khuôn mặt rất xinh xắn và dễ thương. Ở lớp, em và Hoài Anh ngồi cùng một bàn. Chúng em cùng giúp đỡ nhau trong học tập. Vào mỗi giờ ra chơi, em với Hoài Anh lại trò chuyện với nhau. Em rất yêu quý Hoài Anh.
Tuấn Anh là bạn cùng lớp với em. Bạn ấy rất cao to, khỏe mạnh. Chúng em có rất nhiều sở thích chung như đọc sách, chơi game, đá bóng… Trong lớp học, em thường nhờ Tuấn Anh giảng bài. Bởi bạn ấy học rất giỏi. Em mong rằng chúng em sẽ mãi là những người bạn tốt.
Lan là người bạn em yêu quý nhất. Chúng em cùng học ở lớp 2A, trường Tiểu học (tên trường). Lan rất xinh xắn và dễ thương. Bạn còn viết chữ rất đẹp nữa. Cả hai có rất nhiều sở thích giống nhau như nghe nhạc, xem hoạt hình, đọc truyện tranh… Ở trường học, em và Lan thường trò chuyện, giúp đỡ nhau. Từ lâu, chúng em đã trở thành những người bạn thân thiết.
Hòa là bạn thân nhất của em. Nhưng chúng em không học cùng lớp. Bạn học lớp 2A1. Còn em học lớp 2A2. Hòa rất xinh xắn. Dáng người nhỏ nhắn. Khuôn mặt trái xoan. Mái tóc dài đen nhánh. Ở trường, Hòa hay giúp đỡ bạn bè. Bạn còn học rất giỏi nữa. Em rất yêu quý Hòa.
Hoàng là người bạn em mới quen. Bạn học ở lớp 2A3. Cả hai đều thuộc đội bóng của khối lớp 2. Hoàng cao ráo, đẹp trai. Bạn học cũng rất giỏi. Ở trong đội, em thân thiết nhất với Hoàng. Chúng em rất hay trò chuyện với nhau. Em rất quý mến bạn.
Mỹ Anh là bạn cùng trường của em. Bạn học lớp 2A. Còn em học lớp 2B. Nhưng em và bạn rất thân thiết. Mỹ Anh là một cô bạn dễ thương. Bạn học giỏi, chăm chỉ và ngoan ngoãn. Ở trường, thầy cô và các bạn đều yêu quý Mỹ Anh. Em cũng rất yêu mến và tự hào về người bạn của mình.
Hoàng Vũ là bạn cùng lớp của em. Chúng em cũng chơi thân với nhau. Bạn có khuôn mặt rất điển trai. Dáng người cao gầy. Vũ tốt bụng, lại hòa đồng. Thành tích học tập của Vũ rất tốt. Em và Vũ thường chơi đá bóng, bóng rổ củng nhau. Em mong chúng em sẽ mãi là bạn thân.
Hoàng Hải là bạn cùng lớp của em. Bạn là một cậu con trai hiền lành, tốt bụng. Hải có chiều cao rất đáng nể. Khuôn mặt của bạn khá điển trai. Nước da có màu nâu bánh mật. Đôi mắt đen rất sáng. Nụ cười rạng rỡ và ấm áp. Hải học giỏi, lại chăm chỉ. Mọi người trong lớp đều yêu quý bạn.
Thu Trang học cùng trường với em. Bạn học lớp 2A1. Trang là một cô gái cá tính. Mái tóc được cắt ngắn. Dáng người khá mảnh mai. Khuôn mặt trái xoan. Nước da trắng như trứng gà bóc. Đôi mắt sáng long lanh. Thành tích học tập của Trang rất tốt. Bạn còn rất tài năng nữa. Em rất ngưỡng mộ Trang.
Nguyệt Hà là bạn thân của em. Chúng em học cùng lớp 2A1, trường Tiểu học Ánh Sao. Bạn là một cô gái xinh xắn. Tính cách của Hà rất hiền lành và tốt bụng. Ở lớp, bạn hay giúp đỡ mọi người xung quanh. Hà học giỏi, lại ngoan ngoãn. Chúng em luôn yêu mến và trân trọng nhau.
Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 10: Viết Bài Văn Về Một Sự Lựa Chọn Có Ý Nghĩa Mà Bạn Đã Trải Qua Dàn Ý + 2 Bài Văn Hay Lớp 10 trên website Konu.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!