Xu Hướng 9/2023 # Trương Đăng Quế – Người Đầu Tiên Ở Quảng Ngãi Đỗ Hương Tiến # Top 14 Xem Nhiều | Konu.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Trương Đăng Quế – Người Đầu Tiên Ở Quảng Ngãi Đỗ Hương Tiến # Top 14 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Trương Đăng Quế – Người Đầu Tiên Ở Quảng Ngãi Đỗ Hương Tiến được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Konu.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Trương Đăng Quế được biết đến là người đầu tiên ở Quảng Ngãi thi đỗ Hương tiến (học vị cao nhất vào thời của ông). Trong 43 năm làm quan, có 20 năm ông giữ trọng trách lớn (có hai lần nhận di chiếu tôn phò vua mới). Ngoài ra, ông còn là nhà thơ, nhà sử học, là thầy học của vua Thiệu Trị và một số quý tộc nổi tiếng khác. Để tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp cũng như những cống hiến của Trương Đăng Quế cho đất nước mời bạn theo dõi bài viết sau đây của chúng mình. 

Sơ lược tiểu sử Trương Đăng Quế

Thái Sư Trương Đăng Quế

Trương Đăng Quế sinh ngày 1 tháng 11 năm Quý Sửu (1793) tại làng Mỹ Khê, huyện Bình Sơn (nay thuộc xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh), tỉnh Quảng Ngãi.

Tiên tổ của ông là người huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Năm Lê Hy Tông thứ 10 (1622), tổ đời thứ sáu là Trương Đăng Trường vào Nam, làm quan đến Cai quản, tước Nham Lĩnh bá. Nhân thế, ông Trường làm nhà ở tại làng Mỹ Khê.

Trải qua bốn đời truyền nối làm quan, đến đời cha ông Quế là Trương Đăng Phác, làm Tri phủ cho triều Tây Sơn. Vợ ông Phác là bà Đỗ Thị Thiết, sinh hạ được 8 người con (4 trai, 4 gái), trong đó Trương Đăng Quế là người con thứ 5.

Cuộc đời và sự nghiệp của ông Trương Đăng Quế

Thuở nhỏ, Trương Đăng Quế có tiếng văn hay. Năm 1801, khi ông lên tám tuổi, thì cha mất. Tuy nhiên, nhờ chăm học, năm Gia Long thứ 18 (Kỷ Mão, 1819), ông đỗ Hương tiến (tức Cử nhân, đây là học vị cao nhất lúc bấy giờ). Theo sử Nguyễn thì ông chính là người “đầu tiên” ở Quảng Ngãi đạt được học vị này.

Dưới triều Gia Long, Minh Mạng

Ban đầu, ông được bổ làm Hành tẩu bộ Lễ dưới triều Gia Long. Năm Minh Mạng thứ nhất (1820), ông được thăng Biên tu. Tháng 5 (âm lịch) năm đó, nhà vua sai Thượng thư bộ Hộ Nguyễn Hữu Thận lựa người nào học hạnh thuần cẩn, sung làm Hoàng tử trực học để dạy các hoàng tử. Trương Đăng Quế, Doãn Văn Xuân và Ngô Hữu Vĩ liền được cử lên và được dùng.

Sau đó, ông lần lượt trải các chức: Thị độc sung Tán Thiện (1826), Thượng bảo thiếu khanh quản lý phòng văn thư (1828), Thị lang bộ Công sung làm việc ở Nội các (1830); lại đổi sang bộ Lễ sung chức khảo trong kỳ xét hạch giáo chức các tỉnh tại Quốc Tử Giám ở Huế (tháng 6 năm 1830).

Năm 1831, vua Minh Mạng sai ông đi Bắc Thành điểm ngạch sổ binh, khi về được nhắc lên Tham tri bộ Hộ kiêm quản Vũ khố, sung chức Độc quyển thi trong kỳ thi Đình. Tiếp theo, thăng ông lên làm Thượng thư bộ Binh, kiêm giữ ấn triện viện Đô sát, sung Cơ mật viện đại thần.

Năm 1833, Lê Văn Khôi khởi binh chống Nguyễn ở Gia Định. Là Thượng thư bộ Binh, Trương Đăng Quế lo trù tính phương cách đối phó. Đến tháng 7 năm 1835, cuộc nổi dậy này bị đánh dẹp, xét công, ông được thưởng hàm Thái tử thiếu bảo, sung Chủ khảo kỳ thi Hội.

Đầu năm 1836, nhà vua chọn ông làm Kinh lược đại thần đi kinh lý 6 tỉnh Nam Kỳ. Hoàn thành tốt công việc, ông được khen và được thăng Hiệp biện Đại học sĩ, sung Cơ mật viện, nhưng vẫn coi giữ bộ Binh.

Khoảng thời gian ấy có Quách Tất Công và Quách Tất Tại, sau khi bị đánh thua trong cuộc nổi dậy của Lê Duy Lương ở vùng Hòa Bình, lại tôn phò Lê Duy Hiển khởi binh chống Nguyễn ở Thanh Hóa. Quan quân đánh dẹp mãi không xong. Thấy vậy, Trương Đăng Quế bèn xin đi, được vua sung chức Kinh lược sứ tỉnh Thanh Hóa (cuối năm 1836). Thắng trận trở về, ông được gia thưởng Kỷ lục quân công (1837). Cũng trong năm này, ông được cử quản lý Khâm thiên giám.

Năm 1838, cho ông kiêm coi Quốc tử giám ở Huế, lại sung làm Chủ khảo kỳ thi Hội và Độc quyển kỳ thi Đình. Năm 1839, tấn phong ông là Tuy Thịnh nam, sau lại kiêm giữ ấn triện bộ Lễ.

Năm 1840, sung ông chức Tổng lý coi việc làm lăng của vua. Cũng trong năm này, ông nhận di chiếu của vua Minh Mạng tôn phò Nguyễn Phúc Miên Tông (tức vua Thiệu Trị) lên ngôi.

Dưới triều Thiệu Trị

Thiệu Trị năm đầu (1841), nhà vua chuẩn cho Trương Đăng Quế làm Văn Minh điện Đại học sĩ, gia hàm Thái bảo, quản lý bộ Binh, kiêm Cơ mật viện, kiêm sung chức Tổng tài ở Quốc sử quán.

Năm 1842, nhà vua đi tuần ra Bắc, sung ông làm Ngự tiền đại thần. Khi về, nhà vua tấn phong cho ông tước tử và thưởng một đồng kim tiền hạng nhất.

Năm 1844, vì có bệnh, Trương Đăng Quế xin phép nghỉ. Trong khoảng thời gian này, ông xin bổ dùng con cháu của Mạc Thiên Tứ, được vua nghe theo. Năm 1846, nhà vua gả con gái là An Mỹ công chúa cho con trai ông là Trương Đăng Trụ.

Năm 1847, vua Thiệu Trị tấn phong Trương Đăng Quế lên tước Tuy Thạnh bá, và cho khắc tên vào cỗ súng lớn có tên là “Bảo đại định công” (cỗ thứ nhất). Tháng 9 năm này, lại sung ông làm Phụ chính đại thần, nhận di chiếu tôn phò Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (tức Tự Đức) lên kế vị.

Dưới triều Tự Đức

Sau khi lên ngôi, Tự Đức phong ông làm Cần chánh điện đại học sĩ, tấn phong tước Tuy Thạnh Quận công. Năm Tự Đức thứ 2 (1849), bắt đầu đặt viện Tập hiền, Trương Đăng Quế được cử làm Kinh diên giảng quan.

Tháng Giêng năm sau (1850), ông nhận mệnh đi duyệt binh. Kỳ đại kế năm ấy, ông được vua ban thưởng một kim khánh có khắc 4 chữ “Tam Triều Thạc Phụ”.

Năm 1853, nhà vua lại sung ông làm Chánh sứ Bắc Kỳ hà đê. Sau khi đi kinh lý miền Bắc trở về, đề xuất việc sửa sang đê điều, đều được nhà vua nghe theo. Sau đó, lấy cớ sức yếu, ông xin thôi việc, được vua chấp thuận và cho giữ nguyên phẩm hàm. Nhưng chỉ được ít lâu, thuận theo lời tâu của các quan đứng đầu sáu bộ, nhà vua lại triệu ông vào triều tiếp tục giữ bộ Binh. Năm 1855, Trương Đăng Quế xin về hưu, nhưng nhà vua không cho.

Tháng 7 (âm lịch) năm 1858, có 12 chiếc tàu Pháp đến bắn phá các bảo đài ở cửa Hàn (Đà Nẵng, lúc bấy giờ thuộc tỉnh Quảng Nam). Theo sử Nguyễn, buổi đầu ông cùng Phan Thanh Giản đều tâu là “chiến không bằng hòa”. Tuy nhiên theo ông Quế, thì trước khi hòa, “cần phải giữ vững đã”. Được vua cho là phải, sau đó ông nhận lệnh đi khắp Quảng Nam đôn đốc việc xây đắp đồn lũy để phòng thủ…

Sau khi bị ngăn cản ở Đà Nẵng, quân Pháp kéo vào Nam, đến tháng 2 năm 1859, thì thành Gia Định bị đối phương đánh hạ. Thấy quân xâm lược cứ lấn tới, mà mình thì đã già không thể làm tròn trọng trách, tháng 9 (âm lịch) năm 1860, Trương Đăng Quế xin về nghỉ. Trích lời tâu của ông:

Năm Tự Đức thứ 15 (1862), Trương Đăng Quế lại dâng sớ xin về nghỉ hưu. Theo lời bàn của đình thần, nhà vua cho ông thôi giữ bộ Binh, vì ở đó lúc này rất nhiều việc. Trương Đăng Quế lại dâng sớ xin giáng hàm Thượng thư và bỏ tước Quận công, vì để cho “bốn cõi nhiều loạn, là sự nhục của khanh đại phu, là không làm tròn chức vụ của thần”.

Vua không chuẩn cho. Trương Đăng Quế lại dâng sớ nói: Thần không có kế gì để đẩy lui được giặc, nay xin đem một nửa số lương bổng (của thần) lưu lại ở kho để giúp quân phí… Nhà vua phải gượng làm theo ý ấy. Sau, Trương Đăng Quế còn dâng sớ xin về hưu mấy lần nữa, vua Tự Đức mới thuận cho ông về nghỉ hẳn tại quê nhà vào tháng 3 (âm lịch) năm 1863. Mặc dù vậy, khi có việc hệ trọng, nhà vua cũng thường cử người đi hỏi ý kiến ông.

Có lần, được nhà vua hỏi về việc nước, ông gửi sớ tâu 5 điều, trong đó đáng chú ý là: “Đường lối trị nước, cần ở dùng người, nhất là quan lại cấp huyện; Muốn quan thanh liêm, không gì bằng bớt viên chức đi, mà tăng lương bổng; Của dùng thiếu, tùy theo trường hợp, có thể cho phạm nhân được nộp thóc hay vàng chuộc tội”,…Sớ tâu này được vua giao cho đình thần bàn bạc để thi hành.

Tháng 2 (âm lịch) năm Ất Sửu (1865), Trương Đăng Quế lâm bệnh nặng mất ở tuổi 72. Nghe tin, nhà vua cho nghỉ triều 3 ngày, truy tặng ông hàm Thái sư, ban tên thụy là Văn Lượng, cho khắc trên bia mộ dòng chữ: Lưỡng triều cố mệnh lương thần Trương Văn Lượng chi mộ (nghĩa là mộ của bề tôi giỏi chịu mệnh tiên đế phó thác qua hai triều là Trương Văn Lượng).

Năm Tự Đức thứ 28 (1875), nhà vua cho thờ ông trong Thế miếu tại Huế, theo lời dụ trước đây của vua Thiệu Trị.

Những công lao nổi bật mà thái sư Trương Đăng Quế đã đóng góp cho đất nước

Đóng góp cho văn học, sử học

Lăng mộ thờ Trương Đăng Quế

Vốn có một kiến thức uyên bác, một tâm hồn nhạy cảm và yêu thơ nên đi đến đâu ông cũng để lại nhiều bài thơ. Sáng tác của Trương Đăng Quế khá nhiều, tiêu biểu là các tập:

Quảng Khê văn tập (Tập văn Quảng Khê)

Trương Quảng Khê thi văn (Thơ văn Trương Quảng Khê)

Trương Quảng Khê tiên sinh tập tự (Tuyển tập của tiên sinh Trương Quảng Khê)

Khi làm Tổng tài ở sử quán, ông tham gia biên soạn các bộ sử và điển lệ:

Đại Nam liệt truyện tiền biên (Truyện các nhân vật nước Đại Nam, phần tiền biên)

Đại Nam thực lục tiền biên (Ghi chép xác thực sử nước Đại Nam, phần tiền biên)

Đại Nam hội điển toát yếu (Tóm lược những điều cốt yếu của điển lệ nước Đại Nam)

Nam Giao nhạc chương (Âm nhạc lễ Nam Giao),…

Ngoài ra, thơ văn của ông còn được chép trong các sách: Đại Nam anh nhã tiền biên (Lời hay ý nhã của nước Đại Nam, phần tiền biên), Quốc triều hàn quyển (Vườn văn của bản triều), Thi tấu hợp biên (Hợp biên các bài thơ và tấu), Thịnh thế giai văn tập (Tập văn hay đời thịnh), Thúy Sơn thi tập (Tập thơ về núi Thúy Sơn), Từ uyển xuân hoa (Hoa xuân vườn văn),v.v…

Lập địa bạ, đinh bạ Nam Kỳ năm 1836

Đầu năm 1836, vua Minh Mạng cho là sáu tỉnh Nam Kỳ, sau khi xảy ra sự biến thành Phiên An, việc binh đinh, điền thổ cần phải sửa sang nên chọn Trương Đăng Quế làm Kinh lược đại thần đi kinh lý Nam Kỳ, và ông đã đến Sài Gòn ngày 24 tháng 2 năm đó.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, thì chỉ trong 5 tháng, Trương Đăng Quế đã hoàn tất mọi việc, và thành công nhất là công tác duyệt tuyển và đạc điền.

Giúp trị an trong và ngoài nước

Năm Minh Mạng thứ 14 (1833), Lê Văn Khôi ở Gia Định, Nông Văn Vân ở Cao Bằng cùng khởi binh chống Nguyễn. Bấy giờ “Đăng Quế ngày đêm mưu tính, các việc được đúng khớp, đến sau việc yên. Quế được thưởng gia hàm Thái tử thiếu bảo”…

Năm 1836, khi nhận trọng trách đi kinh lược Nam Kỳ (1836), song song với việc lập đinh bạ và địa bạ cho mỗi thôn xã, Trương Đăng Quế còn xin và được chấp thuận việc đặt phủ lỵ, đồn bảo ở nơi trọng yếu để “bên trong làm phên che cho Gia Định được vững, bên ngoài làm cho tăng thêm thanh thế của Trấn Tây” (Chân Lạp).

Cuối năm 1836, thuận theo lời xin của Trương Đăng Quế, vua Minh Mạng sung ông làm Kinh lược sứ Thanh Hóa để tiễu trừ cuộc nổi dậy của Quách Tất Công và Quách Tất Tại. Đến nơi, ông cho quân đóng ở Lang Chánh rồi vừa chiêu an, vừa chia quân xây đánh.

Tháng 3 (âm lịch) năm sau (1837), quan binh bắt sống được Quách Tất Tại. Đến tháng 4 (âm lịch), lại bắt sống được hai nhân vật trọng yếu của quân nổi dậy là Lê Duy Hiển (minh chủ) và Hoàng Nguyệt Đồng (quân sư, dọc đường cắn lưỡi chết). Sang khoảng tháng 5 (âm lịch) thì Thanh Hóa được yên, sau khi các viên chỉ huy quân nổi dậy bị bắt hoặc bị diệt gần hết.

Để giữ yên tỉnh Thanh lâu dài, Trương Đăng Quế xin đắp một bảo lớn (gọi là bảo Ninh Lương), đắp đồn ở động Khương Chánh và ở Trịnh Vạn… Ngoài ra, ông còn xin chia động Trịnh Vạn ra làm 2 tổng (Trịnh Vạn và Quân Nhân). Đồng thời xin lấy tổng Như Lăng (thuộc huyện Nông Cống) và tổng Luận Khê (thuộc huyện Lôi Dương) làm thành châu Thường Xuân…Tất cả đều được vua y cho.

Trương Đăng Quế là thầy học của vua Thiệu Trị và một số quý tộc nổi tiếng khác, trong đó có Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương. Các công chúa như Nguyệt Đình, Huệ Phố, Mai Am…, dù không theo học, nhưng vẫn xưng là học trò ông. Đương thời, ông được đông đảo giới trí thức lúc bấy giờ kính trọng về học vấn sâu rộng và nhân cách khiêm nhường.

Đăng bởi: Tùng Khánh

Từ khoá: Trương Đăng Quế – Người đầu tiên ở Quảng Ngãi đỗ Hương tiến

Quảng Ngãi Có Gì Vui? Chơi Gì Ở Quảng Ngãi?

Bài viết sẽ tổng hợp những địa danh tham quan du lịch vui chơi giải trí thư giãn “check-in” hấp dẫn tại tỉnh Quảng Ngãi.

Quảng Ngãi là một tỉnh ven biển nằm ở vùng duyên hải Nam Trung bộ, Việt Nam. Tỉnh lỵ là thành phố Quảng Ngãi, cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 820 km về phía Nam, cách thành phố Đà Nẵng tầm 146 km về phía Bắc, và cách thủ đô Hà Nội chừng 908 km về phía Bắc theo đường quốc Lộ 1A.

Quảng Ngãi được tái lập vào năm 1989 trên cơ sở tách tỉnh Nghĩa Bình thành 2 tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định. Tỉnh Quảng Ngãi có 13 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 1 thành phố: Quảng Ngãi, 1 thị xã: Đức Phổ, và 11 huyện: huyện Ba Tơ, Bình Sơn, Lý Sơn (huyện đảo), Minh Long, Mộ Đức, Nghĩa Hành, Sơn Hà, Sơn Tây, Sơn Tịnh, Trà Bồng, Tư Nghĩa.

Quảng Ngãi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Nam Trung bộ được chính phủ chọn khu vực Dung Quất để xây dựng nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam. Đường bờ biển Quảng Ngãi có chiều dài khoảng 129 km với vùng lãnh hải rộng lớn và 6 cửa biển giàu nguồn lực hải sản cùng nhiều bãi biển đẹp.

Ngũ Quảng là một từ khá xưa gồm 5 vùng đất: Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức, Quảng Nam và Quảng Ngãi. Vào thời Gia Long, vùng Thừa Thiên gọi là dinh Quảng Đức. Qua thời Minh Mạng, dinh Quảng Đức đổi thành phủ Thừa Thiên. Sau năm 1945, phủ Thừa Thiên được đổi thành tỉnh Thừa Thiên, và hiện nay là tỉnh Thừa Thiên-Huế.

Khí hậu Quảng Ngãi chia làm hai mùa. Mùa mưa bắt đầu từ khoảng tháng 9 đến hết tháng 2 năm sau, thường xuất hiện nhiều loại hình thiên tai khốc liệt như: bão, dông, lốc, lũ, ngập úng,… cùng không khí lạnh của những đợt gió mùa Đông Bắc làm cho nhiệt độ giảm sâu, thấp nhất có thể trạm xuống 10 – 13 độ C. Các tháng còn lại là mùa khô (hay mùa nắng) có thời tiết nắng, nóng và tạnh ráo, nhiệt độ trung bình dao động từ 25 – 27 độ C. Đây cũng là khoảng thời gian lý tưởng để du lịch Quảng Ngãi.

Một góc biển Mỹ Khê thuộc huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi

Một góc cảng địa phương ở Quảng Ngãi

Nắng sớm trên biển Sa Huỳnh, thị xã Đức Phổ

Đầm An Khê thuộc thị xã Đức Phổ

Một góc đồng muối Sa Huỳnh, thị xã Đức Phổ

Bãi Dừa Tư Nghĩa

Cửa biển Sa Cần

Biển Dung Quất

Biển Khe Hai (biển Thiên Đàng)

Biển Bình Châu – “làng chài cổ vật” Châu Thuận Biển

Biển Ba Làng An (mũi Ba Làng An, Ba Tân Gân)

Làng Gò Cỏ

Cảng Sa Kỳ – Đảo Lý Sơn (gồm có 2 đảo: đảo Lớn, còn gọi là đảo chính – đảo Lý Sơn – Cù Lao Ré; đảo Bé, còn gọi là đảo An Bình – Cù Lao Bờ Bãi; và hòn Mù Cu) gồm: cổng Tò Vò, đỉnh Thới Lới, hang Câu, chùa Hang, chùa Đục, cánh đồng tỏi Lý Sơn, làng bích họa đảo Bé,…

Suối nước Hố Giang (hồ Hố Giang, thác Hố Giang)

Hố Giang Thơm

Sông Trà Khúc (sông Trà) – Bờ kè sông Trà

Chợ đêm Sông Trà

Đầm Nước Mặn

Đầm An Khê

Đèo Vi Ô Lắc

Đèo Long Môn (đèo Cóp)

Cung đường Trường Sơn Đông đi qua các tỉnh lộ TL630 – 623 – 626 – 622

Thảo nguyên Bùi Hui (xã Ba Tang, huyện Ba Tơ)

Núi Thiên Ấn (Kim Ấn Sơn)

Núi Cà Đam (núi Vân Phong)

Núi Răng Cưa

Núi Phú Thọ (núi Đá, Thạch Sơn) – Đá Hòn Chồng – Thôn Cổ Lũy (Cổ Lũy cô thôn)

Làng bích họa Thọ An

Làng bích họa Gành Yến

Làng cổ Thiên Xuân

Thành cổ Châu Sa

Các di chỉ của văn hóa Sa Huỳnh

Khu lưu niệm cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng

Khu chứng tích Sơn Mỹ

Quần thể di tích theo dòng nhật ký Đặng Thùy Trâm

Di tích và đền thờ Bùi Tá Hán

Chùa Thiên Ấn (Sắc Tứ Tổ Đình Thiên Ấn, Tổ Đình Sắc Tứ Thiên Ấn)

Chùa Hội Phước

Chùa Ông Thu Xà (chùa Ông, Quan Thánh tự, Đại Tự Quan Thánh)

Chùa Minh Đức

Chùa Diêm Điền

Chùa Diệu Giác

Chùa Hoa Nghiêm

Chùa Phước Long

Chùa Phước Lộc

Chùa Phước Sơn

Chùa Phước Quang

Chùa Thình Thình – Núi Thình Thình

Miếu Phú Long

Nhà thờ Thánh Anphongsô

Nhà thờ Trà Câu

Nhà thờ giáo xứ Bàu Gốc

Giáo xứ Quảng Ngãi

Giáo xứ Phú Hòa

Khu bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng

Khu du lịch Thác Trắng Minh Long

Khu phức hợp công nghiệp, đô thị và dịch vụ VSIP

“Tuyệt Tình Cốc” (Đá Bàn – Bình Trị)

Đập Thạch Nham

Nhà thờ giáo xứ Cù Và

Một số món ăn ngon, đặc sản quyến rũ mà du khách có thể thưởng thức và mua về làm quà khi du lịch Quảng Ngãi:

Chim mía Quảng Ngãi

Cúm núm Sa Huỳnh

Don Quảng Ngãi

Nhum Quảng Ngãi

Ốc hút Quảng Ngãi

Sò điệp Quảng Ngãi

Cá bống sông Trà

Cá niên nướng

Cá cơm Quảng Ngãi

Bún cá ngừ um Quảng Ngãi

Bún riêu cua Quảng Ngãi

Ram bắp (chả ram bắp, chả giò bắp, nem rán bắp)

Bánh xèo Quảng Ngãi

Bánh bèo chén Quảng Ngãi

Bò hít Quảng Ngãi

Bánh tráng mắm ruốc

Quế Trà Bồng

Xu xoa Quảng Ngãi

Kẹo gương đậu phộng

Mạch nha Quảng Ngãi

Bánh in Quảng Ngãi

Bánh bó (bánh cây)

Bánh nổ

Bánh thuẫn Quảng Ngãi

Bánh tráng Quảng Ngãi

Cốm rang

Đường phèn Quảng Ngãi

Đường phổi Quảng Ngãi

Tương ớt Quảng Ngãi

Tỏi Lý Sơn

Cua huỳnh đế Lý Sơn

Hàu son Lý Sơn

Chả cá Lý Sơn

Rong mứt Lý Sơn (rong biển đen)

Rau câu chân vịt

*** Bài viết có sử dụng tư liệu được tổng hợp và biên tập lại từ nhiều nguồn trên Internet, mang giá trị tham khảo.

Đăng bởi: Tân Phạm

Từ khoá: Quảng Ngãi có gì vui? Chơi gì ở Quảng Ngãi?

Các Món Ăn Ngon Ở Quảng Ngãi

ALONGWALKER – Cũng như hầu hết cư dân ven biển miền Trung, người Quảng Ngãi sống trên mảnh đất có những dải đồng bằng hẹp phù sa sông, xen kẽ với những dải đất bạc màu, nghiêng về phía biển là lô nhô cồn cát, đầm, phá, cù lao. Cá từ biển, cây trái từ nguồn theo đường bộ, đường sông giao lưu hai chiều xuôi ngược, ngang qua những vùng đồng bằng, nhiều gạo, nhiều ngô khoai, khiến các món ăn ngon ở Quảng Ngãi nhiều khi thấy đủ cả hương vị của rừng, sông, ruộng, biển.

Ngoài các thắng cảnh, các món ăn ngon ở Quảng Ngãi cũng là điểm nhấn dành cho các tín đồ ẩm thực (Ảnh – murilo_andes)

Don

Món Don (Ảnh – thuy_van_17291)

Món don của người Quảng Ngãi chỉ đơn giản là tô nước có những con don bé xíu và một ít hành tây, hành lá ăn kèm với bánh tráng sống, bánh tráng nướng chín bẻ nhỏ. Không chỉ để mời khách phương xa mà người Quảng tha hương trở về đều tìm đến quán ăn bát don quê. Vị cay của của ớt bay, vị ngọt dịu của bát don có màu đùng đục… từ lâu món don ăn dân dã trở thành đặc sản của tỉnh này…

Ram thịt nướng

Ram hay còn gọi chả giò, nhưng Ram thịt nướng của Quảng Ngãi thì đặc biệt hơn nhiều. Bánh tráng dùng để cuốn phải là bánh rất mỏng, nếu bánh được tráng bằng tay thì sẽ ngon hơn bánh được sản xuất bằng máy, khi ăn cảm giác bánh giòn tan và thơm hơn. Nhân bên trong thì có thịt, tôm và hành cắt nhỏ, tẩm ướp gia vị cho vừa ăn, cuốn bánh xong thì được nẹp vào thẻ tre nướng trên bếp than hồng. Một cuốn ram có ngon hay không, phần lớn phụ thuộc vào mùi vị của tôm, tôm tươi phải còn nguyên con, được tẩm ướp gia vị vừa ăn, xào sơ qua trước khi gói ram để nướng. Phần thịt bò cuốn lá phải chọn những lá lốt non, thịt bò được ướp khoảng 1 tiếng đồng hồ cùng với sả, tỏi, tiêu…Món ăn đúng vị không thể thiếu chén nước chấm với hương vị rất đặc trưng.

Ram thịt nướng (Ảnh – duylucky)

Nhiều du khách khi đến Quảng Ngãi đều tìm đến quán ram thịt nướng 72 Nguyễn Nghiêm, Tp Quảng Ngãi để thưởng thức các món ăn được chế biến theo công thức gia truyền, với hương vị đậm đà khó quên. Đây là quán ăn nổi tiếng đã mở được trên 50 năm.

Mì Quảng Sông Vệ

Mì quảng ở Quảng Ngãi (Ảnh – duylucky)

Mì Quảng sông Vệ hương vị không giống như mì Quảng ở Quảng Nam mà có hương vị đặc trưng riêng của miền quê Quảng Ngãi. Mì Quảng sông Vệ có nhiều biến thể khác nhau, nào là mì gà, mì tôm, mì thịt, mì trứng, mì bò… nhưng đậm đà hơn cả là mì tôm kết hợp với thịt. Tô mì với đủ sắc màu, sợi mì vàng hoặc trắng đục tùy sở thích của khách, kèm theo vài miếng thịt nướng, vài con tôm, rắc tí đậu phụng, lá thơm ăn kèm với rau sống, bánh tráng. Khi trộn đều nước gia vị từ dưới đáy tô lên rồi thưởng thức, vị ngọt của nước thịt, vị cay của tiêu, ớt, độ béo của đậu phụng, giòn tan của bánh tráng… tất cả quyện vào nhau, tạo nên hương vị thật đậm đà khó quên.

Bánh xèo Tịnh Khê

Bánh xèo ở chợ quê Tịnh Khê (Ảnh – Cao Minh Ha)

Tịnh Khê không chỉ nổi tiếng với bãi biển thơ mộng, mà còn có cả những hàng quán bánh xèo thơm lừng, nóng hổi với hương vị đặc trưng khó cưỡng. Bánh xèo nơi đây có hương vị đặc trưng, bánh mỏng, có tôm, mực băm nhuyễn, nên có vị ngon, ngọt. Nếu muốn thưởng thức, các bạn chỉ cần chạy dọc tuyến đường Mỹ Khê – Trà Khúc, đến chợ Tịnh Khê sẽ thấy rất nhiều dãy quán đúc bánh xèo.

Cá tào lao

Món cá tào lao nướng (Ảnh – Nguyen Tri)

Cá tào lao hay còn gọi là cá chìa vôi, cá phóng lao sinh sống tập trung ở vùng biển các tỉnh miền Trung. Chúng trú ngụ ở những rạn san hô và săn mồi bằng chiếc mỏ như mỏ vịt, nhưng rất dài đặc trưng của mình nên có biệt danh là “cá tào lao”.

Cá tào lao là loại cá có giá trị kinh tế cao vì giá trị dinh dưỡng của nó lớn, thịt cá giàu canxi, chất béo, chất đạm, vitamin, kali… Cá nung núc thịt, thịt ngọt, béo, dai, thơm lừng, có thể chế biến thành những món như nướng muối ớt, nướng sa tế, nấu lẫu, chiên giòn, làm gỏi…, trong đó món nướng được nhiều người ưa chuộng vì vừa ngon lại dễ chế biến.

Cá niêng

Cá niêng nướng (Ảnh – Hoài Phương)

Nếu có dịp đến các huyện Ba Tơ, Minh Long, Sơn Hà địa bàn cư trú của dân tộc H’re, du khách sẽ được thưởng thức cá niêng nướng chấm muối ớt. Đây là một món ăn địa phương dân dã nhưng hấp dẫn nhiều du khách.

Cá niêng sống ở những dòng thác, ăn rong rêu và phù du nên khá sạch và thịt rất thơm. Cá niêng ngon nhất là khi to bằng ba ngón tay. Cá bắt được dùng xiên tre đem lụi nướng trên vỉa than hồng. Khi vừa chín tới đem chấm muối sống giã với ớt hiểm để ăn thì thịt cá rất béo, ruột vừa đăng đắng vừa bùi. Nếu không muốn nướng, thì đem luộc rồi chấm với muối ớt. Dùng món cá niêng nếu có thêm rau húng, rau thơm ăn kèm sẽ hấp dẫn hơn.

Cá thài bai sông Trà

Cá thài bai (Ảnh – Hộp Nguyễn)

Cá thài bai là loại cá rất đặc biệt, hình thù giống cá bống con, thân nhỏ như chiếc que tăm trắng toát. Không chỉ vì nó rất nhỏ, mà dòng đời, nơi sinh sống… cũng rất lạ. Cá thài bai ngon nhất là vào khoảng cuối đông đầu xuân. Khoảng thời gian này là thời điểm cá sinh trưởng và phát triển.

Chả cá Định Tân

Ảnh – FB Chả cá Định Tân

Thôn Định Tân xã Bình Châu, Bình Sơn nổi tiếng cả trong và ngoài tỉnh Quảng Ngãi bởi món đặc sản nổi tiếng này. Nghề làm chả cá “đỏ lửa” quanh năm, nhưng nhộn nhịp nhất là từ tháng 3 đến tháng 6, vì đây là lúc thu hoạch cá đỏ, nguyên liệu chính của món chả cá.

Để có độ dai, giòn, chả cá Định Tân phải trải qua nhiều công đoạn. Nhưng công đoạn đầu tiên mang tính bắt buộc là phải róc xương, lấy thịt cá bằng phương pháp thủ công, đó là dùng muỗng để nạo thịt. Sau khi ướp các loại gia vị để tăng độ thơm ngon, chả cá bắt đầu được “tạo hình”, từ đây tùy theo nhu cầu của khách mà chả cá được giữ nguyên dạng tươi sống hoặc chế biến sơ trước khi giao hàng.

Mít hông

Mít hông (Ảnh – tadao_pham)

Người Quảng Ngãi có nhiều món ăn rất độc đáo. Một trong những món đó là món mít hông nổi tiếng mà khi về xứ Quảng, nhiều du khách đã tìm bằng được để thử một lần thưởng thức.

Mít hông là món ăn dân dã, nhưng từ lâu đã trở thành đặc sản của người dân miền núi xứ Quảng. Món ăn này độc đáo trước hết ở cách chế biến. Đầu tiên, người ta chọn những quả mít vừa chín tới. Mít chín quá khi hông sẽ bị nhão. Mít được chọn thường là loại mít múi to. Sau khi từng múi mít được bóc ra, người ta rạch một đường nhỏ vừa đủ để lấy hạt mít. Đây là nguyên liệu không thể thiếu khi làm mít hông.

Điều thú vị nhất của mít hông nằm ở phần nhân. Nhân mít hông được làm từ chính hạt mít. Hạt mít khi được lấy ra người ta đem luộc, sau đó bóc vỏ và giã nhỏ. Hạt mít giã xong sẽ được nêm gia vị với bột ngọt, hạt tiêu và một ít muối rồi đem xào. Đặc biệt, trước khi xào, dầu phải được khử với củ nén hoặc củ hành thì mới thơm và “đúng bài”. Dầu ăn nếu là dầu đậu phụng (cách gọi dầu lạc của người Quảng Ngãi) ép thủ công thì sẽ càng ngon hơn.

Làm nhân mít hông cũng khá đơn giản. Hạt mít sau khi xào chín được cho vào bên trong các múi mít đã bóc hạt trước đó. Sau đó, mít được đem hông (hấp cách thủy) trong khoảng 15 phút. Không nên hông quá lâu vì sẽ làm mít bị nhão.

Mít hông thường được ăn kèm với dừa nạo và đậu phụng rang. Món ăn này có nguyên liệu và cách chế biến khá đơn giản, nhưng lại thơm ngon rất hấp dẫn. Ăn mít hông phải ăn lúc mít vừa được hông xong mới cảm nhận hết được hương vị thơm ngon quyện với vị ngọt dịu của múi mít cùng vị béo, bùi của nhân bên trong.

Dưa hấu Hắc Mỹ Nhân

Dưa hấu Hắc Mỹ Nhân thường được trồng xen kẽ hoặc sau khi thu hoạch tỏi (Ảnh – Đặng Đức Hưng)

Tuy là cây trồng truyền thống nhưng diện tích dưa trên đảo không nhiều như hành, tỏi và bắp. Trước đây cây dưa hấu trồng ra chỉ cung cấp cho người dân trên đảo, còn bây giờ dưa hấu Lý Sơn đã được nhiều người biết đến như một đặc sản của vùng đất này.

Nếu như dưa hấu trong đất liền được trồng rất công phu thì dưa ở Lý Sơn không cần lên luống, không cần phủ bạt, không phân bón, dưa được trồng phủ khắp mặt ruộng theo cách tự nhiên. Khi cây dưa ra quả, họ không phải chọn lựa những trái lớn như trong đất liền. Dưa chín đến đâu hái bán đến đó. Mỗi ngày họ chỉ bán vài ba tạ cho thương lái. Dưa hấu Lý Sơn không to, quả lớn nhất cũng chỉ 3- 4kg. Tuy nhiên, hương vị của nó thì rất đặc biệt, ngọt, thanh và có mùi thơm rất riêng. Chính vì thế mà dưa hấu Lý Sơn trở thành một sản phẩm độc đáo, vừa ngon lại vừa lành.

Xu xoa Lý Sơn

Xu xoa Lý Sơn (Ảnh – Huỳnh Châu)

Khi đến với Lý Sơn trong những tháng hè nóng bức đều tò mò tìm hiểu và nhiệt tình thưởng thức những chén xu xoa được người dân Lý Sơn bày bán khắp đất đảo, thế nhưng mấy ai biết được rằng để có được chén xu xoa thanh ngọt, là món quà vặt dân dã giúp giải nhiệt trong mùa hè oi nồng phải qua nhiều công đoạn trong quá trình chế biến khá công phu.

Chén xu xoa thanh ngọt được người dân Lý Sơn chế biến từ loại rau có tên là rau đông. Khi mùa mưa đến rau đông mọc trên các gành đá vòng quanh huyện đảo và được người dân thu hoạch từ tháng giêng đến tháng 4 âm lịch hằng năm. Sau khi vớt lên từ biển, rau đông sẽ được người thu mua phơi trên các bờ thành quanh đảo. Sau con nắng đầu tiên, rau đông sẽ được rải ra đầm cho rụng bớt đá bám trên rễ cây.

Rau đông khô ngâm qua một đêm, rửa lại cho sạch tạp chất và nấu cùng nước ngọt, sạch. Sau khi rau tan hoàn toàn trong nước bắt đầu đổ ra chén hoặc các khuôn làm bánh theo sở thích của người nấu và được gọi là xu xoa. Xu xoa chỉ ngon khi ăn kèm với nước đường được sên từ đường vàng hoặc đường muỗng và một ít gừng tươi đập nát sau khi đã được nướng vàng trên lửa.

Gỏi cá cơm

Gỏi cá cơm Quảng Ngãi (Ảnh – Xuan Trân)

Cái con cá nghèo hèn đã làm nên món nước mắm Nam Ô trứ danh tại Đà Nẵng, vào đến Quảng Ngãi lên được bàn tiệc, mà lại là gỏi cá sống mới tài. Để làm món ngon trứ danh này, người Quảng Ngãi lấy cá cơm tươi bỏ đầu, bỏ ruột, chẻ cá làm đôi theo chiều từ đầu xuống đuôi để loại bỏ xương, rồi rửa sạch, để cho thật ráo nước.

Chanh trái vắt nước (nếu không có chanh thì dùng giấm, nhưng chanh thì ngon hơn), cho cá vào ngâm khoảng 45 phút đến 1 giờ đồng hồ. Khi nào thấy cá chuyển sang màu trắng trong, dậy mùi thơm là cá đã chín, sau đó vắt cá thật khô, nước vắt giữ lại để làm món tương chấm.

Dùng gạo rang, giã nhuyễn trộn đều vào cá, mục đích giữ cho cá được khô và thơm lâu. Tiếp đó cho hành tây cắt mỏng (đã ngâm muối), gia vị vừa ăn, thêm chút dầu phộng đã phi hành, tỏi, ớt xanh thái nhỏ vào chung với cá đã trộn gạo rang. Chuẩn bị một ít đậu phộng rang chín, giã dập và vài cái bánh tráng nướng.

Ăn gỏi cá cơm không thể thiếu rau xà lách, cải tầu ô, cải canh xanh mướt, dăm trái cà chua chín đỏ và đôi ba trái chuối chát được xắt lát mỏng trộn đều…

Gỏi bòng bòng Lý Sơn

Gỏi bòng bòng hay còn gọi là gỏi rong biển (Ảnh – Hà Xuyên)

Mỗi năm, rau bòng bòng chỉ sinh trưởng từ tháng 2-4 âm lịch. Bởi vậy mà đến Lý Sơn những tháng này, du khách mới có dịp thưởng thức món đặc sản tuyệt vời này – món gỏi bòng bòng hay rau cum cúm.

Bòng bòng vừa nhổ về, cắt đi phần gốc, rồi ngâm qua đêm trong nước cho bớt vị tanh. Khi cần chế biến, chỉ việc cho mớ bòng bòng qua nước sôi rồi vớt ra để giữ được độ giòn. Sau đó thái nhỏ, trộn dầu ăn đã khử chín cùng các gia vị gồm mắm, chanh, đường, bột nem… sao cho vừa miệng. Khi gần ăn, người Lý Sơn cho thêm các loại rau thơm và đậu phộng rang vào, là đã có món gỏi bòng bòng tuyệt vời để xúc bánh tráng hay ăn cùng cơm. Những cộng bòng bòng dòn sựt, vị rong biển đặc trưng khó lẫn hòa cùng mùi thơm của mắm, chanh và hạt đậu bùi bùi, tạo nên cảm giác ngon khó tả.

Mắm nhum

Mắm nhum Quảng Ngãi (Ảnh – A Kiều)

Theo sử sách, vào đời vua Minh Mạng, mỗi năm người dân Quảng Ngãi phải nộp mắm nhum để tiến cống cho triều đình và bắt buộc phải cống bằng vật phẩm, không được thay thế bằng tiền. Vì thế, mắm nhum còn được gọi với cái tên hoa mỹ là mắm tiến vua hay mắm ngự.

Nhum có thể chế biến làm nhiều món, hưng ngon nhất là chế biến thành mắm nhum. Thịt nhum cho vào chai, rải muối và tiêu rồi đậy nắp kín, để nắng nửa tháng chuyển sang đặc sền sệt màu hồng đỏ ăn với thịt ba rọi cuốn bánh tráng, rau sống. Cũng chính vì hương vị đặc trưng của các món chế biến từ nhum mà các thực khách đến đây thường không bỏ qua món nhum biển.

Gỏi cá trích Đức Minh

Gỏi cá trích ở Đức Minh (Ảnh – A Kiều)

Món cá trích chỉ được làm chín bằng thứ duy nhất là nước cốt chanh, nhưng ngon đến lạ kỳ! Cái nôi của món gỏi ngon nức tiếng này là vùng biển xã Đức Minh, huyện Mộ Đức. Chính cái ngon kỳ lạ ấy mà đến mùa cá trích, các quán ăn ở vùng biển xã Đức Minh đông nghẹt khách khắp nơi đến để thưởng thức món gỏi cá trích cho thỏa. Khi thưởng thức, thực khách cầm lên một miếng bánh tráng sống cho vào vài cộng rau thơm rồi cho gỏi cá lên trên quấn lại, chấm với nước mắm. Gỏi cá trích đặc biệt ở mùi thơm, vị ngọt, bùi của cá hòa quyện với mùa thơm của bột gạo làm từ bánh tráng trộn và các loại rau gia vị.

Hến kình sông Thoa

Đĩa hến luộc chấm bột nêm vắt tí nước tắc (Ảnh – Trang Thy)

Sông Thoa, chi lưu của dòng Vệ giang, khởi nguồn giữa hai huyện Nghĩa Hành và Mộ Đức. Khi vào địa phận Đức Phổ, dòng sông này lại góp thêm nước của cả ba dòng Trà Câu, sông Trường và Lò Bó trước khi ra biển, nên được xem là sông mẹ.

Hến kình là loài thủy sinh thân mềm có hai mảnh vỏ bên ngoài, trông rất giống hến nhưng lớn hơn hến gấp nhiều lần. Vì thế, những người dân nơi đây gọi là hến kình. Sau khi mang về, hến kình được sửa sạch và ngâm trong nước vo gạo vài giờ đồng hồ. Tiếp đến, vớt hến ra rổ rồi sơ chế, bỏ hai mảnh vỏ bên ngoài, lấy phần thân trong rồi rửa sạch. Thân hến dùng để chế biến các món: Nấu cháo, nấu canh, xào, nướng… đậm đà hương vị sông quê. Đơn giản và không kém phần ngon ngọt là món hến luộc chấm với bột nêm vắt thêm ít nước tắc.

Canh rau xanh ốc đá

Đồng bào miền núi phía tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi có câu: “Rau ranh, ốc đá/ Là cá nậu nguồn”. Vì xa biển nên loại thực phẩm phổ biến được xem như cá của người nậu nguồn nơi đây là rau ranh, ốc đá. Có nhiều cách chế biến ốc đá và rau ranh. Trong đó, thơm ngon độc đáo nhất là món canh rau ranh ốc đá. Ở miền núi xứ Quảng, rau ranh và ốc đá có quanh năm nhưng ngon nhất là vào thời gian từ mùa xuân đến giữa mùa hè.

Làm món canh rau ranh ốc đá khá đơn giản. Nguyên liệu chính chỉ có ốc và rau. Ốc bắt về đem ngâm một ngày cho sạch. Sau khi ngâm, chà ốc cho sạch phần vỏ, chặt bỏ đuôi để dễ hút. Ốc được nêm gia vị (phải có ớt, sả và một ít lá chanh non thì mới ngon) rồi đem xào cho thấm, sau đó cho nước vào nấu. Cho thêm một ít gạo hoặc đậu xanh sẽ ngon hơn. Nước sôi một hồi lâu thì cho rau ranh vào. Đợi canh sôi lại, nêm nếm vừa ăn rồi nhắc xuống là được.

Đặc sản Quảng Ngãi mua về làm quà Tỏi Lý Sơn

Tỏi được người dân bày bán trên đảo Lý Sơn (Ảnh – cungphuot.info)

Đảo Lý Sơn từ lâu nổi tiếng với nghề trồng tỏi. Tỏi Lý Sơn nức tiếng thơm ngon, mang hương vị đặc trưng của một vùng đất tiền tiêu của Tổ quốc.

Cam đường Lý Sơn

Cam đường dại trên Đảo Bé (Ảnh – Cao Ngọc Cảnh)

Mang tên cam đường, nhưng quả chỉ bé bằng quả chanh, hạt thì lớn như hạt bưởi. Và dẫu lớn lên trong nắng gió khắc nghiệt của đảo Bé (Lý Sơn), nhưng loại cam đặc biệt ấy vẫn có vị ngọt lịm, mùi thơm dìu dịu.

Là loại cây ăn quả hiếm hoi thích nghi với thời tiết khắc nghiệt của đảo, nên cam đường được người dân đảo Bé trân quý, nâng niu. Kết trái vào mùa hè, đến đầu đông thì cho thu hoạch. Cây cam mọc khá thấp, nhưng vì cành nhánh có nhiều gai, nên người thu hoạch cam đường đòi hỏi phải khéo léo, để không bị gai đâm vào tay chân.

Loài quả này nhỏ hơn chanh thông thường, mỗi quả có từ 4 đến 6 hạt, khi chín vỏ chuyển sang màu vàng nhạt, ăn có vị ngọt và thơm. Tuy chỉ là những cụm cây thấp, mọc hoang ngoài bờ, ngoài bụi, nhưng mỗi bụi cam đường vẫn sản sinh hàng trăm quả chín mọng, đủ cho 75 nóc nhà trên đảo Bé đều có cơ hội thưởng thức.

Quế Trà Bồng

Nằm phía đông của dãy Trường Sơn (liền về phía tây là đỉnh Ngọc Linh cao khoảng 1.500m), miền đất quế bao gồm các huyện Trà Bồng, Tây Trà (Quảng Ngãi), Nam Trà My, Bắc Trà My (Quảng Nam), có độ cao trung bình 400 – 500m. Sản phẩm quế ở đây được thị trường đánh giá cao, vì có mùi hương đặc biệt, chứa lượng tinh dầu cao nên được nhiều thị trường không chỉ trong nước mà cả thị trường ở nhiều nước trên thế giới ưa chuộng

Mạch nha Mộ Đức

Mạch nha Quảng Ngãi (Ảnh – Tường Vi)

Mạch nha là sản phẩm thủ công truyền thống của Quảng Ngãi. Dư địa chí tỉnh Quảng Ngãi ghi rõ: Vào những năm 1930 – 1935, tại các hội chợ danh tiếng được tổ chức ở Huế và Hà Nội, sản phẩm mạch nha đã được trưng bày và tạo được tiếng vang bởi hương vị ngọt thơm, thanh dịu và thuần khiết.

Đây là tên một loại đường kẹo làm từ ngũ cốc (lúa mạch, đại mạch, lúa mì, lúa, nếp…) bằng phương pháp lên men tinh bột. Đường mạch nha có màu vàng hổ phách, dẻo mà không dai, vị ngọt thanh, thoang thoảng mùi hương nếp.

Bánh ít lá gai Lý Sơn

Bánh ít lá gai ở Lý Sơn (Ảnh – cungphuot.info)

Bánh ít lá gai là một trong những loại bánh truyền thống ở huyện đảo Lý Sơn nên có rất nhiều người biết làm loại bánh này, song để có người làm bánh chuyên nghiệp quanh năm, thì rất ít. Huyện đảo Lý Sơn hiện chỉ có còn khoảng chục hộ làm nghề gói bánh ít lá gai.

Để tạo ra sản phẩm bánh ít lá gai vừa ngon, vừa đẹp, cần chọn những lá gai non, bỏ gân, mang đi luộc, sau đó vắt khô rồi cho vào cối giã đến khi lá gai dẻo, chắt lọc lấy nước để trộn vào bột nếp khuấy đều tạo thành một khối bột màu xanh thẫm.

Đặc biệt, bánh ít lá gai ở huyện đảo Lý Sơn người dân quết bánh bằng tay, chứ không quết máy như nơi khác. Quết bánh ít thủ công bằng tay tuy vất vả và lâu hơn nhưng bù lại là sẽ sẽ làm cho cái bánh được mềm dẻo hơn và khi ăn sẽ ngon hơn.

Chính sự công phu và tỉ mỉ trong từng công đoạn nên bánh ít lá gai Lý Sơn có hương vị thơm ngon đặc trưng, khác với bánh ít lá gai ở những nơi khác. Bánh ít Lý Sơn có độ dẻo vừa, khi ăn sẽ cảm nhận được vị tinh khiết của lá gai trên đất đảo, vị thơm của gạo nếp, vị ngọt của đường, vị béo của dừa, vị bùi của đậu hòa quyện trong chiếc bánh.

Bánh mè Trì Bình

Bánh mè Trì Bình được tiêu thụ nhiều đặc biệt mỗi dịp cận Tết (Ảnh – P Tiên)

Làng Trì Bình thuộc xã Bình Nguyên (huyện Bình Sơn), là một vùng quê nổi tiếng từ lâu đời với nghề làm bánh mè gia truyền.

Công việc đầu tiên là phải chọn loại gạo phân dân, vo đãi sạch sẽ rồi xay nhuyễn; sau đó gia với bột nghệ; tiếp đến dùng khuôn đóng bột gạo thành từng chiếc bánh vuông vứt rồi mang đi hấp chín. Lúc bánh gạo vừa chín tới lập tức mang ra xếp lên lò sưởi cho chiếc bánh săn lại; khô ráo; hoàn toàn giòn tan. Tiếp đó là thắng đường. Đường vàng thắng kéo tơ thì nhắc xuống; để than đảm bảo nồi nóng thường xuyên. Dùng đũa nhúng chiếc bánh gạo đã nướng vào nồi đường kéo tơ bám quanh chiếc bánh rồi nhanh tay lấy ra. Công đoạn hoàn thiện là lúc cho bánh đã nướng nhúng vào thau mè rang ngay bên cạnh; phủ kín mè vào bánh. Khi ấy, chiếc bánh đã thành phẩm nhưng cần phải để thật nguội mới đóng gói nếu không muốn làm mất đi độ giòn.

Tìm trên Google:

các món ăn ngon ở Quảng Ngãi

đặc sản Quảng Ngãi làm quà

ăn gì khi du lịch Quảng Ngãi

các quán ăn ngon ở Quảng Ngãi

đến Quảng Ngãi nên ăn gì

địa điểm ăn uống Quảng Ngãi

ẩm thực Quảng Ngãi

Đăng bởi: Lê Hiền

Từ khoá: Các món ăn ngon ở Quảng Ngãi

Thác Trắng Minh Long Điểm Đến Hấp Dẫn Ít Người Biết Ở Quảng Ngãi

Thác Trắng Minh Long điểm đến hấp dẫn ít người biết ở Quảng Ngãi

Thác Trắng nằm cách thành phố Quảng Ngãi chừng 23km về hướng Tây Nam thuộc địa bàn xã Thanh An, huyện Minh Long. Nơi hoang sơ này đang là điểm đến của nhiều người trong những ngày hè cuối tuần và cũng là một địa điểm hấp dẫn đối với dân “phượt”. Ảnh: Đại Thanh

Thác Trắng Minh Long nằm giữa vùng núi Trường Sơn trùng điệp và là một trong những thác đẹp nhất ở miền núi tỉnh Quảng Ngãi.  Ảnh: instagram

Ðộ cao của thác khoảng 40-50 mét. Từ trên cao, nước chảy xuống trắng xóa như dát bạc trên sườn núi đá dốc đứng. Ảnh: ST

Ảnh: instagram

Dưới chân thác có hồ nước sâu tự nhiên rộng hàng trăm mét vuông, xanh biếc và mát lạnh. Từ chân thác này, nước theo con suối rộng khoảng 20 mét, lô nhô đá tảng giữa dòng, quanh co uốn khúc trong thung lũng trước khi chảy ra hợp nước với các khe suối khác. Ảnh: trannguyennghiep

Giữa mùa hè nóng bức mà đến thác Trắng với không khí mát lành thì thật tuyệt. Nơi này xưa chỉ là rừng hoang, chỉ có một ít đồng bào Hrê đến cất chòi giữ trâu. Ngày nay đã trở thành một làng Hrê định canh định cư, vẫn với nếp nhà cổ truyền, nhưng lợp ngói, khang trang đẹp đẽ. Ảnh: munraii

Thác Trắng là nơi lý tưởng cho những người trẻ bơi lội, thỏa sức vẫy vùng với nước, ngay dưới dòng nước đổ xuống từ chân thác, thác được tách ra nhiều dòng thác nhỏ hai bên, mỗi bên có một vẻ đẹp riêng. Ảnh: linhnho95

Không gian xanh mát xung quanh khu vực thác. Ảnh: ha.uyenuyen

Ảnh: Kim Thoa

Hồ nước dưới chân thác Trắng và lòng suối có nhiều cá niêng được xem như một đặc sản mà bất cứ khách từ đâu cũng ưa thích. Ảnh: Phước Trần

Thác Trắng đã được đưa vào khai thác như một nơi du lịch sinh thái nghỉ dưỡng, có đầy đủ các dịch vụ nghỉ ngơi, ăn uống, vui chơi giải trí, nhằm mang lại cảm giác vừa hoang sơ những vẫn đảm bảo an toàn cho người du lịch phương xa đến đây. Ảnh: hbshop.online

Thông tin thêm:

Xuất phát từ trung tâm thành phố Quảng Ngãi, đi về hướng Tây Nam đến thị trấn Chợ Chùa huyện Nghĩa Hành, rồi qua đèo Eo Gió là đến địa phận huyện Minh Long. Đến thị trấn Minh Long, rồi đi tiếp hơn 5km, đường lên thác hiện đã được đổ bê tông. Tuy nhiên đường đi khá dốc nên cũng đủ tạo cảm giác phiêu lưu cho dân phượt.

Chú ý: Từ TP Quảng Ngãi, bạn có thể đi xe buýt tuyến Quảng Ngãi – Minh Long với chỉ 16.000 đồng/lượt. Đến chân cầu Thanh An, bạn có thể đi xe ôm vào khu thác Trắng. Hay có thể thuê xe máy với giá dao động từ 80.000-120.000 đồng/xe/ngày để chinh phục cung đường tuyệt đẹp lên thác Trắng.

Theo Phong Châu (Tổng hợp)

Đăng bởi: Lê Xuân Cầu

Từ khoá: Thác Trắng Minh Long điểm đến hấp dẫn ít người biết ở Quảng Ngãi

Thuyết Minh Về Quảng Ngãi ❤️️16 Bài Giới Thiệu Quảng Ngãi

Thuyết Minh Về Quảng Ngãi ❤️️ 16 Bài Giới Thiệu Quảng Ngãi ✅ Tuyển Tập Văn Mẫu Đặc Sắc Viết Về Những Điểm Đến Nổi Tiếng Của Vùng Đất Trung Bộ.

Tỉnh Quảng Ngãi nằm ở vùng duyên hải miền Trung, lưng tựa vào dãy Trường Sơn, mặt hướng ra biển Đông, phía bắc giáp Quảng Nam, phía nam giáp Bình Định, phía tây nam giáp Kon Tum. Bờ biển Quảng Ngãi dài 135km, ngoài khơi có đảo Lý Sơn.

Thành phố Quảng Ngãi được xây dựng trên bờ sông Trà Khúc. Từ xa xưa đã có những bánh xe nước to lớn quay suốt ngày đêm, vừa tô đẹp cho phong cảnh, vừa cấp nước cho các ruộng lúa, ruộng mía, nguyên liệu làm ra các loại đường cát, đường phèn, đường phổi, mạch nha, kẹo gương nổi tiếng đất nước.

Quảng Ngãi có cảng Dung Quất, một cảng lớn có độ sâu lý tưởng đang được khởi công xây dựng. Trong tương lai Dung Quất sẽ trở thành một cảng dầu khí lớn nhất Việt Nam cùng với thành phố Vạn Tường hiện đại. Quảng Ngãi mảnh đất giàu tiềm năng đang chờ đợi đầu tư hơn nữa để trở thành một trong những trung tâm phát triển ở miền Trung và là điểm du lịch thu hút khách trong và ngoài nước.

Quảng Ngãi là tỉnh có nền văn hoá lâu đời, nhiều di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh như cảnh đẹp núi Ấn, sông Trà Khúc, Cổ Luỹ Cô thôn rợp mát bóng dừa, bãi tắm Sa Huỳnh nước trong xanh, cát trắng, lộng gió, di tích kiến trúc thành cổ Châu Sa, nằm kề bên bờ bắc của sông Trà gần cửa biển, các di tích văn hoá Sa Huỳnh, mộ cụ Huỳnh Thúc Kháng…

Đến Quảng Ngãi, du khách có dịp thăm lại chiến trường xưa, những di tích lịch sử như căn cứ địa Ba Tơ, chiếc nôi cách mạng ở miền Trung; di tích khởi nghĩa Trà Bồng, vùng đất của những rừng quế bạt ngàn; chứng tích tội ác chiến tranh Sơn Mỹ; chiến thắng Ba Gia; chiến thắng Vạn Tường, với nhiều dấu tích chiến trường xưa oanh liệt.

Quảng Ngãi là vùng đất có lợi thế về di sản văn hóa, biển đảo và là vùng đất của những biến động địa chất hàng triệu năm kiến tạo. Từ huyện đảo Lý Sơn sống động về văn hóa, lịch sử, hình thành từ những lớp nham thạch núi lửa trên biển, đến vùng ven biển, đồng bằng hay vùng núi cao đều chứa đựng những bí ẩn, đầy kỳ thú của vũ điệu thời gian từ thuở khởi nguồn sự sống.

Quảng Ngãi đã chú trọng phát triển du lịch nghỉ dưỡng, tắm biển, vui chơi giải trí, thể thao, khám phá ở các bãi biển Mỹ Khê, Lý Sơn, Sa Huỳnh, Vạn Tường, Khe Hai… Bên cạnh đó, sản phẩm du lịch văn hóa, lịch sử gắn với lễ hội, tâm linh, nghiên cứu, giáo dục, thăm lại chiến trường xưa… đã và đang khai thác tốt. Đồng thời, du lịch sinh thái cũng đang phát triển mạnh tại các điểm như: Suối Chí, Thác Trắng, Suối nước nóng Nghĩa Thuận, Khu Du lịch sinh thái nghỉ dưỡng Bãi Dừa…

Ngoài ra, sản phẩm du lịch cộng đồng gắn với các dịch vụ trải nghiệm như câu cá, mực, soi đêm, lặn ngắm san hô… ở các huyện có tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng như Lý Sơn, Bình Sơn; hay trải nghiệm văn hóa đồng bào Hrê và tìm hiểu Bảo tàng Khởi nghĩa Ba Tơ; du lịch miệt vườn tại huyện Nghĩa Hành, du lịch cộng đồng tại làng Gò Cỏ, phường Phổ Thạnh (TX.Đức Phổ)… cũng đã thu hút nhiều du khách.

SCR.VN tặng bạn 💧 Giới Thiệu Về Một Danh Lam Thắng Cảnh 💧 17 Bài Văn Hay

Tham khảo bài giới thiệu về du lịch Quảng Ngãi hay nhất và cùng khám phá những địa điểm hấp dẫn thu hút du khách đến với dải đất ven biển miền Trung.

Nằm ở vùng đất duyên hải miền Trung với thời tiết nắng nóng khắc nghiệt, Quảng Ngãi khá mờ nhạt trên bản đồ du lịch Việt Nam. Nhưng những năm gần đây, Quảng Ngãi đã trở thành điểm đến lý tưởng và quen thuộc của những người đam mê du lịch.

Đường bờ biển dài 135 km là một lợi thế rất lớn của Quảng Ngãi. Những bãi biển Mỹ Khê, Sa Huỳnh, Khe Hai- Dung Quất, Minh Tân, Đức Minh, Tân Định là những bãi tắm nổi tiếng sạch đẹp và có tiềm năng rất lớn để phát triển thành khu du lịch nghỉ dưỡng. Đặc biệt, đảo Lý Sơn – “hòn ngọc” cách đất liền khoảng 25 km là một địa điểm thu hút lượng khách du lịch cực kì lớn. Đắm mình dưới làn nước trong veo, là một trải nghiệm mà bất cứ ai cũng muốn thử trong ngày hè oi bức.

Không chỉ có những bãi tắm sạch đẹp, Quảng Ngãi còn nổi tiếng với những di tích văn hóa lịch sử, danh thắng đẹp nổi tiếng như di chỉ văn hóa Sa Huỳnh, thành cổ Châu Sa, chứng tích Sơn Mỹ, di tích Ba Tơ, chùa Thiên Ấn. Quảng Ngãi từng là chiến trường ác liệt trong đạn bom, nay vươn mình trở thành vùng đất đầy hứa hẹn về đầu tư và du lịch. Nhiều tuyến du lịch mang đặc trưng Quảng Ngãi cũng đã được mở như TP. Quảng Ngãi – đảo Lý Sơn; TP Quảng Ngãi – Di tích Bệnh xá Bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm – di chỉ Sa Huỳnh.

Nền ẩm thực ở Quảng Ngãi rất phong phú, đa dạng, không chỉ có mạch nha, đường phèn đường phổi (là những món ăn chơi), mà còn có nhiều món ăn gần gũi với đời sống, những món ăn mang đậm phong cách bình dân xứ Quảng như don, cá bống sông Trà ăn với cơm nóng, bánh xèo, bê thui, đậu hũ được nấu trong giò…

Có đường quốc lộ 1A và đường sắt Bắc-Nam đi qua, sân bay Chu Lai ở gần kề, du khách có thể dễ dàng đi đến Quảng Ngãi bằng nhiều tuyến giao thông khác nhau và có những trải nghiệm thú vị nhất. Có thể khẳng định, tài nguyên thiên nhiên của Quảng Ngãi là vô tận với những vẻ đẹp riêng có và không hề thua kém so với một số địa phương nổi tiếng khác trên cả nước.

Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử ☀️ 17 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Quảng Ngãi là tỉnh duyên hải miền Trung Việt Nam có nhiều thắng cảnh đẹp. Nhưng khi nhắc đến Quảng Ngãi, người ta thường nói đến vẻ đẹp của núi Ấn, sông Trà, biểu tượng thắng cảnh của tỉnh Quảng Ngãi.

Trên quốc lộ 1A con đường huyết mạch chạy suốt Bắc- Nam, cách thủ đô Hà Nội 883 km Thành phố Quảng Ngãi nằm ngay bên bờ sông Trà Khúc. Sông Trà Khúc còn được gọi là Trà Giang hay sông Trà là dòng sông lớn và cũng là điểm đến không thể bỏ qua của nhiều du khách đến với Quãng Ngãi.

Sông Trà phát nguồn từ đỉnh núi Đắc Tơ Rôn tỉnh KonTum, cao 2.350 m.. Sông Trà hợp thành bởi 4 con sông, chảy về hướng đông, qua ranh giới thành phố Quảng Ngãi rồi đổ ra biển qua cửa Đại Cổ Lũy. Với chiều dài 150 km, chảy qua nhiều khu đồi, núi dốc, nhưng đến thành phố Quảng Ngãi dòng sông chảy êm đềm hơn, khiến khung cảnh thành phố bên sông mang thêm vẻ đẹp yên bình, cuốn hút.

Đến với Quảng Ngãi, du khách không thể bỏ qua một thắng cảnh nổi tiếng khác, đó là núi Thiên Ấn. Núi Thiên Ấn cao 106 mét, cách thành phố Quảng Ngãi 3,5 km về hướng Đông bắc. Ở bất cứ hướng nào, nhìn từ xa người ta đều thấy ngọn núi có hình thang, tựa như chiếc ấn từ trời cao nghiêng xuống dòng sông, vì vậy người xưa gọi thắng cảnh này là “Niêm Ấn Thiên Hà” (tức là quả ấn của trời đóng niêm xuống dòng sông).

Trên núi có chùa Thiên Ấn (Thiên Ấn Tự) được xây dựng từ năm 1695 ( đời chúa Nguyễn Phúc Chu). Trong chùa Thiên Ấn hiện còn quả “chuông thần” rất quý do các nghệ nhân làng đúc đồng Chú Tượng (Mộ Đức) tạo tác vào năm 1845. Trải qua bao thế kỷ tiếng chuông chùa vẫn vang vọng khắp không gian rộng lớn. Con đường đi lên đỉnh núi men theo sườn núi phía Nam theo hình xoắn ốc. Đường đủ rộng, có độ dốc thoai thoải , bởi thế có thể lên núi bằng ô tô xe máy rất thuận tiện. Du khách cũng có thể thong thả đi bộ lên đỉnh núi.

Ấn tượng đầu tiên đứng trên đình núi Ấn là khí hậu rất mát mẻ. Từ đây, du khách tha hồ ngắm nhìn toàn cảnh thành phố Quảng Ngãi yên bình bên dòng sông trà xanh mát lững lờ trôi. Khuôn viên chùa Thiên Ấn nằm trên khoảng đất rộng ẩn dưới bóng cây cổ thụ mang dáng vẻ u tịch. Chùa Thiên Ấn có kiến trúc đơn giản, theo kiểu kiến trúc nhà Rường (loại nhà có hệ thống kết cấu cột kèo bằng gỗ, được liên kết hoàn toàn bằng chốt, mộng gỗ).

Gian chùa chính ở phía trước, phía sau là khu nhà tổ. Xung quanh chùa có khu vườn tượng với những vườn hoa cây cảnh, có những hàng ghế đá cho khách ngồi nghỉ. Phía đông chùa Thiên Ấn là khu lăng mộ của các vị sư tổ với những ngôi tháp được xây dựng nhiều tầng theo số lẻ (5, 7, 9) và tượng hình hoa sen. Đặc biệt trong khuôn viên chùa còn có giếng nước gọi là “Giếng Phật” được đào từ lúc khai sơn, lập chùa.

Sư thày Thích Đông Hoàng, trụ trì chùa Thiên Ấn, kể: Ngày ấy, vị sư tổ đào mãi không thấy nước thì đi ra ngoài, sau khi quay lại thấy tia nước đầu tiên, thì mừng rỡ nên gọi người kéo lên…nhưng quên còn có vị tăng trẻ vẫn ở dưới giếng. Khi nhớ ra nhà sư tới xem thì vị tăng trẻ đi lúc nào không biết. Bởi vậy trong dân gian vẫn con lưu truyền câu thơ: Có thày đào nước trên non, đến khi có nước không còn tăm hơi.

Dù giếng đào trên núi, nhưng theo người dân ở đây, nguồn nước trong giếng chưa bao giờ cạn. Người dân trong vùng còn cho rằng nước ở giếng Phật có thể chữa được nhiều loại bệnh tật. Với những đặc điểm như thế, trong tâm thức người Quảng Ngãi, núi Thiên Ấn và dòng Trà mãi là biểu tượng Sơn Thủy thiêng liêng. Vào những dịp lễ lớn, khách thập phương đến lễ, vãn cảnh chùa Thiên Ấn lên đến cả vạn người. Nhiều khách du lịch cũng không bỏ dịp được chiêm ngưỡng thắng cảnh hàng đầu của tỉnh Quảng Ngãi.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Đón đọc bài thuyết minh về di tích lịch sử ở Quảng Ngãi với những thông tin thú vị giúp bạn tìm hiểu về di tích thành cổ Châu Sa gắn liền với vương triều Chăm cổ.

Thành cổ Châu Sa là thành đất do người Chăm xây dựng duy nhất còn lại ở Việt Nam hiện nay. Đây là ngôi thành gắn với nhiều bí ấn cùng lịch sử thăng trầm của dân tộc Chăm và vương quốc Chiêm Thành.

Thành Châu Sa được dân gian gọi là thành Hời (thành của người Hời, tức người Chăm). Sử cũ gọi là thành Đa La, Chiêm Lũy động, Cổ Lũy động. Thành tọa lạc ở khu vực hạ lưu tả ngạn sông Trà Khúc, nay thuộc xã Tịnh Châu, cách TP. Quảng Ngãi 7 km về hướng đông bắc. Trên khắp cõi Việt Nam, đây là thành đất duy nhất mà người Chăm còn để lại với những dấu tích cho phép nhận diện khá rõ vị trí, quy mô, bố cục cũng như vai trò của tòa thành đối với vùng đất có thể là một tiểu quốc của họ.

Thành cổ Châu Sa được phát hiện vào năm 1924 khi nhà khảo cổ học người Pháp Henri Parmentier (1871-1949) tìm thấy ở đây một bia đá (về sau gọi là “Bia đá Châu Sa”) có 4 mặt khắc chữ Chăm nói về cuộc đời hai vị vua đầu tiên của vương triều Indrapura (875-982). Trên bia cũng ghi chính xác năm dựng bia là 903. Cùng với các bằng chứng khảo cổ khác, các nhà khoa học cho rằng thành cổ Châu Sa ra đời trong khoảng thế kỷ 9 – 10 và là một trong những trung tâm hành chính, kinh tế và văn hóa quan trọng của vương quốc Chiêm Thành lúc bấy giờ.

Từ sau cuộc Nam chinh của vua Lê Thánh Tông năm 1471, vùng đất từ nam đèo Hải Vân đến bắc đèo Cù Mông được sáp nhập vào Đại Việt, thành lập Đạo thừa tuyên Quảng Nam, cổ thành Châu Sa dần bị rơi vào quên lãng. Cho nên, đến thế kỷ 19, các sử gia triều Nguyễn vẫn còn nghi ngờ về ngôi cổ thành này. Sách “Đại Nam nhất thống chí” chép về thành này như sau: “Thành cổ Châu Sa ở xã Châu Sa, huyện Bình Sơn. Diện tích hơn 5 mẫu 5 sào. Tương truyền có hai thuyết: Một thuyết nói là thành Đại La của nước Chiêm Thành, một thuyết là Vệ Thành của Tam ty đời Lê (tức 3 ty thuộc Đạo thừa tuyên Quảng Nam đời nhà Hậu Lê). Chưa rõ thuyết nào đúng”.

Trải qua những thăng trầm của thời gian và lịch sử, dấu tích của thành Châu Sa ngày nay vẫn còn khá nguyên vẹn với nhiều tường đất, hào lũy. Thành có hai lớp: thành nội và thành ngoại. Thành nội được đắp bằng đất, hình chữ nhật dạng gần vuông (540 m x 580 m), cạnh dài theo hướng bắc – nam. Tường thành cao từ 4-6 m, chân thành rộng từ 20-25 m, mặt thành rộng 5-8 m. Quanh thành có hào nước rộng từ 20-25 m, nay phần nhiều đã bị bồi lấp thành ruộng. Thành nội có 5 cửa mở theo hướng đông, tây, nam, bắc và tây nam; trong đó, cửa nam được đào đắp công phu hơn cả, được phỏng đoán là cửa chính của thành.

Thành ngoại gồm có ba mặt, được kết hợp giữa đào đắp với việc tận dụng địa thế tự nhiên (đồi núi thấp, gò, ao đầm, suối rạch). Phía nam của thành ngoại nhìn ra sông Trà Khúc nên không có bờ thành. Điểm nhấn đặc biệt trong kiến trúc tổng thể của thành cổ Châu Sa là hai gọng thành hình càng cua đối xứng nhau theo trục nam – bắc nằm giữa thành nội và thành ngoại, về hướng phía nam. Trong đó, gọng phía tây dài gần 700 m, gọng phía đông dài gần 500 m.

Tuy được đắp bằng đất nhưng thành cổ Châu Sa có quy mô khá lớn, án ngữ ở vị trí trọng yếu của một vùng lưu vực rộng lớn thuộc sông Trà Khúc. Thành thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược cũng như sự khôn khéo của người Chăm xưa trong việc kết hợp tối ưu giữa chức năng quân sự – phòng thủ với vai trò kinh tế – dân sự. Đây được xem là ngôi thành đất tiêu biểu của người Chăm.

Ngày nay, trải qua những thăng trầm lịch sử, thành cổ Châu Sa vẫn còn đó như là chứng tích về vương triều Chăm Pa một thuở lẫy lừng. Thành được công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa cấp Quốc gia vào năm 1994.

Chia sẻ 🌼 Thuyết Minh Về Biển Mỹ Khê Quảng Ngãi 🌼 10 Bài Hay Nhất

Sa Huỳnh là thắng cảnh lưng tựa vào núi rừng trùng điệp, mặt hướng về biển biếc bao la để lại nhiều lưu luyến đối với mỗi du khách.

Đứng trên đồi cao nhìn xuống Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), bãi cát vàng, bờ sóng trắng chạy một “nét mi” cong lao xao, mềm mại. Đường sắt cách biển không xa, chạy song song với quốc lộ, trông như hai sợi dây đàn căng ngang khiến tâm hồn bao du khách đong đầy nhạc cảm. Còn nếu nhìn Sa Huỳnh từ ngọn Hải đăng trên bán đảo Thạnh Đức (cách Sa Huỳnh 3 km về phía đông), đầu tiên bạn sẽ thấy sắc xanh mềm mại của những lũy tre, tiếp đến là xanh sẫm những bóng dừa rồi đến xanh trong của dòng sông mở lòng ra biển lớn. Những con tàu buông neo đợi giờ xuất bến. Những xóm chài yên bình, êm ả nép bên nhau.

Chắc chắn bạn sẽ lưu giữ vẻ đẹp góc cạnh của những chàng trai biển bên tấm lưới giăng trên bãi cát. Đó là những tấm ngực trần vồng lên hình ngọn sóng. Đó là những bắp thịt cuồn cuộn từng kéo xoăn tay chùm cá nặng giữa biển khơi. Đó là những bàn chân trần vững vàng trên dập dềnh sóng cả. Ngồi với họ, bạn sẽ được nghe kể về những bữa cơm chan hòa vị biển, những giấc ngủ chao đảo trong ca bin mùa biển động, những giấc ngủ chênh vênh, một đêm có khi ướt ráo mấy mươi lần.

Họ sẽ kể cho bạn nghe chuyện đảo xa, không chỉ là chuyện sóng gió của biển trời mà còn là những câu chuyện “sóng gió” của lòng người xoay trở. Bạn sẽ bắt gặp những phụ nữ cần mẫn ngồi vá lưới để cho con, cho em, cho anh, cho chồng của họ có một giấc ngủ no mắt trước chuyến biển dài hơi. Một giấc ngủ say trên bờ bằng cả chục đêm ngủ lơ mơ trên biển mà.

Nếu muốn tìm một đoạn ngắn bờ biển mà sóng nước lúc nào cũng êm ả, gờn gợn như mặt hồ, các bạn hãy đến với bãi Con – cách bãi mẹ Sa Huỳnh về phía đông khoảng 1 km. Bãi Con nối với chân gành gập ghềnh đá nửa nổi nửa chìm trong nước biển nên rất nhiều hàu. Hàu ở đây lành tính, thơm ngon, đậm đà vị biển nên du khách rất thích.

Một màn trình diễn đầy màu sắc sẽ làm bạn mãn nhãn khi ngắm rạng đông trên bãi biển Sa Huỳnh. Mặt trời đỏ rựng trên nền mây lung linh, biển dần xanh lên từ màu sẫm đen của bóng đêm sót lại, bãi cát vàng những tia nắng đầu tiên sẽ làm bạn nhẹ bâng. Ngày mới của bạn sẽ bắt đầu như thế.

Dạo bộ dọc quốc lộ qua thị tứ Sa Huỳnh, hình ảnh sinh động của cánh đồng vào vụ gặt, hình ảnh êm đềm của đàn bò no cỏ vừa đi vừa nhai bóng hoàng hôn, hình ảnh khói lam chiều bảng lảng xóm làng xa cũng có thể cho bạn những phút giây thư thả tâm hồn.

Sa Huỳnh nhiều cung bậc. Cung bậc nào cũng dìu dịu những thanh âm trong trẻo, tươi ròng vẻ đẹp của cuộc sống trong từng phân cảnh non nước trời mây.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Quảng Nam 🍀 15 Bài Giới Thiệu Quảng Nam

Bài thuyết minh về đảo Lý Sơn Quảng Ngãi sẽ tái hiện trước mắt bạn đọc khung cảnh thiên nhiên trong xanh, tươi đẹp của vùng biển đảo này bằng những ý văn giàu hình ảnh.

Lý Sơn huyện đảo với vô vàn những cảnh đẹp, con người bình dị và thân thiện. Có lẽ chỉ mới vài năm gần đây Lý Sơn mới được nhiều người biết đến khi ngành du lịch phát triển. Nhưng trước đó Lý Sơn đã có cả một lịch sử phát triển lâu đời với những khung cảnh đẹp, những con người đầy hiên ngang, khí phách.

Lý Sơn là huyện đảo thuộc tỉnh Quãng Ngãi và đây cũng là huyện đảo duy nhất của tỉnh. Lý Sơn cách đất liền 15 hải lí. Trước khi có tên gọi là Lý Sơn, huyện đảo này có tên là cù lao Ré, cái tên được đặt dựa trên đặc điểm riêng của đảo là trồng rất nhiều cây Ré. Đảo Lý Sơn được hình thành từ miệng núi lửa cách đây từ 25 đến 30 triệu năm. Chính sự phun trào của các ngọn núi lửa này đã tạo nên những cảnh quan thiên nhiên kì thù, lạ thường trên đảo. Đặc biệt lớp đất để lại sau đợt phun trao thích hợp cho nhiều loại cây trồng.

Với những kết quả nghiên cứu, thì có thể thấy rằng đảo Lý Sơn đã có người sinh sống từ thời văn hóa Sa Huỳnh. Và đến khoảng cuối thế kỉ XVI đầu thế kỉ XVII cư dân Việt bắt đầu khai khẩn vùng đất này để sinh sống. Lý Sơn nằm cách biệt ngoài đảo, nên ít chịu ảnh hưởng của chiến tranh, nên văn hóa cổ truyền được thiết lập ở đây mang dấu ấn đậm, và được lưu giữ lại rất tốt.

Đảo Lý Sơn chỉ có diện tích khoảng 9,97 km2, với hơn 20 nghìn người sinh sống trên đảo. Đảo gồm có hai đảo chính là đảo Lớn và đảo Bé và một hòn Mù Cu ở phía Đông của đảo Lớn. Đảo gồm có ba xã chính, đi theo hai đảo và một hòn là: An Vĩnh, Anh Hải và An Bình.

Người dân trên đảo sinh sống chủ yếu bằng đánh bắt hải sản, ngoài ra cũng có nông nghiệp. Nghề nông ở đây khá khó phát triển, vì đảo nhỏ, nguồn nước không quá dồi dào, bởi vậy nông nghiệp còn nhiều khó khăn. Trên đảo chủ yếu trồng cây lương thực khác, ngoại trừ lúa, lúa phải nhập từ đất liền. Nghề trồng tỏi là thịnh hành nhất trên đảo. Chủ lực của Lý Sơn chính là đánh bắt hải sản, cao gấp năm lần cho với nông nghiệp. Ngoài ra, những năm gần đây, Lý Sơn còn phát triển thêm ngành du lịch, hàng năm số lượng người đến du lịch lớn, đem lại công ăn việc làm và nguồn lợi kinh tế không nhỏ cho người dân nơi đây khi kinh doanh các dịch vụ.

Lý Sơn tuy chỉ là một huyện đảo nhỏ nhưng lại có ý nghĩa nhiều mặt. Trước hết về văn hóa, Lý Sơn đã lưu giữ những giá trị văn hóa quý báu. Trong các cuộc khai quật, người ta đã tìm thấy cư dân Sa Huỳnh – chủ nhân văn hóa hệ biển đảo, tiếp đến là văn hóa Chăm Pa, để lại những giá trị di sản văn hóa đặc sắc. Trên đảo cũng có rất nhiều lễ hội văn hóa: lễ hội đua thuyền, lễ khao lề thế lính Hoàng Sa,… Ngôi chùa Hang kì vĩ, được mệnh danh là chùa trời sinh và còn rất nhiều di sản văn hóa khác, đã làm phong phú, đa dạng thêm văn hóa nơi đây.

Lý Sơn là biển đảo thơ mộng, hoang sơ bởi vậy hàng năm thu hút lượng khách du lịch trong và ngoài nước lớn. Cổng tò vò với chiều hoàng hôn ráng đỏ đã làm say lòng biết bao bạn trẻ, rồi đến những bài biển dài, cát trắng xóa mềm mịn, nước trong xanh, thấu đến tận đáy. Làm ta đi một lần là nhớ mãi. Đến Lý Sơn đi bất cứ đâu bạn cũng có thể tìm thấy cảnh đẹp cho riêng mình. Du lịch tại Lý Sơn đã góp phần thúc đẩu kinh tế xã hội phát triển. Bên cạnh đó ta cũng không thể không nhắc đến nét đặc sắc trong văn hóa ẩm thực, với món gỏi tỏi chứ danh, gỏi cá cơm, và các món hải sản thơm ngon, hấp dẫn,…

Ngoài ra, Lý Sơn với cảnh đẹp nên thơ, hữu tình cũng đã khơi nguồn cảm hứng sáng tác từ bao đời nay:

Hay bài thơ của những người con xa quê hương, nhớ thương gửi qua từng câu chữ:

Lý Sơn – trái tim của biển đông, nơi hội tụ biết bao vẻ đẹp của quê hương. Với những thế mạnh vốn có của mình Lý Sơn không chỉ lưu giữ vốn văn hóa ngàn đời của dân tộc, mà còn có cơ hội phát triển hơn nữa, đưa cuộc sống của con người nơi đây ngày càng đủ đầy, ấm no hơn.

Chia sẻ cơ hội 🌟 Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí 🌟 Tặng Card Nạp Tiền Ngay Free Mới

Tham khảo bài thuyết minh về biển Mỹ Khê Quảng Ngãi với cách hành văn sinh động và để lại nhiều ấn tượng với người đọc.

Nằm cách thành phố Quảng Ngãi chỉ 15 km, nằm trên đường ra cảng Sa Kỳ để đi đảo Lý Sơn. Vài năm trở lại đây, nhiều người đã biết đến cái tên Mỹ Khê – một điểm đến mới của tỉnh Quảng Ngãi.

Trùng tên với bãi biển Mỹ Khê nổi tiếng của TP Đà Nẵng, bãi biển Mỹ Khê thuộc thôn Cổ Lũy, xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, nằm bên cạnh sông Kinh là bãi tắm lý tưởng với không gian mênh mông, bãi cát trắng mịn, độ dốc thoải, được che chắn kín đáo bởi những rặng núi lấn ra biển cả ở 2 đầu.

Với đường bờ biển trải dài 7km, dải cát mịn, dốc thoai thoải, được che chắn bởi rừng dương (phi lao) xanh thẳm đu đưa theo gió. Bờ biển uốn hình lưỡi liềm như vầng trăng khuyết và càng trở nên thơ mộng hơn vào mùa hè, dưới ánh trăng thổn thức. Do chưa được khai thác đúng mức, biển Mỹ Khê – Quảng Ngãi còn giữ được nét đẹp hoang sơ, chưa bị bàn tay con người tác động nhiều, một nàng tiên vẫn ngủ yên chờ con người đánh thức.

Với con sông Kinh chạy song song ở phía trong, bãi biển Mỹ Khê có những làng chài chài yên bình, những chiếc thuyền câu đánh bắt gần bờ, những chiếc thuyền thúng nằm phơi mình cùng nắng gió mang lại những nét chấm phá, điểm tô sự bình dị, thân thương cho bãi biển nơi đây. Mặc dù bãi biển Mỹ Khê nằm bên quốc lộ 24B, chỉ cách TP Quảng Ngãi 50 phút xe bus; cách cảng Sa Kỳ 5km; cách cảng Dung Quất 16km nhưng bãi biển này vẫn còn khá mới mẻ với rất nhiều người.

Đặc biệt, trên tuyến đường ra với Mỹ Khê, du khách cũng có thể tham quan hàng loạt các di tích nằm bên đường như: Bảo tàng chứng chứng tích chiến tranh Sơn Mỹ; Đền thờ anh hùng thời chống Pháp Trương Định; Di tích thảm sát Mỹ Lai ghi dấu tội ác của quân đội Mỹ từng tấn công vào đây; thăm chùa Núi Ấn và sống Trà Khúc hiền hòa chảy ra biển vốn được coi là biểu tượng của Quảng Ngãi vốn đi vào thơ ca “Núi Ấn – Sông Trà”.

Đến với bãi biển Mỹ Khê, du khách có thể tìm cho mình một góc riêng bên các hàng quán dân dã, thưởng thức những món đồ hải sản với giá tương đối bình dân và đặc biệt nơi đây không hề có sự xô bồ, bán mua như ở những bãi biển du lịch khác. Chính điều này nên những ngày cuối tuần hoặc lễ tết, du khách nhất là các bạn trẻ thường lấy đây làm điểm đến trên chuyến hành trình khám phá của mình trước khi ra Lý Sơn.

Không nổi tiếng được như người “chị” Mỹ Khê (Đà Nẵng), hạ tầng bãi biển Mỹ Khê (Quảng Ngãi) vẫn còn đơn sơ. Du khách biết đến Mỹ Khê cũng chỉ vài năm gần đây nhờ sự nổi tiếng của hòn đảo Lý Sơn, vì địa danh này nằm trên đường từ Quảng Ngãi ra cảng Sa Kỳ.

Thực tế, Mỹ Khê là một trong những bãi tắm đẹp và có nhiều lợi thế của tỉnh Quảng Ngãi để phát triển du lịch. Du khách đến đây có thể trải nghiệm một cảnh quan biển nguyên sơ và tận hưởng cảm giác yên bình khi tìm về với thiên nhiên.

Mời bạn khám phá thêm 💕 Thuyết Minh Về Thánh Địa La Vang Quảng Trị 💕 10 Bài Hay

Thác trắng là một trong những thác đẹp nhất ở miền núi tỉnh Quảng Ngãi. Thác nằm gần thôn Tịnh Ðố, xã Thanh An, huyện Minh Long. Từ huyện lỵ đi đến thác khoảng 7km. Thác Trắng Minh Long nằm giữa vùng núi Trường Sơn trùng điệp.

Thác Trắng đã được đưa vào khai thác, phát triển thành một khu du lịch sinh thái, với những điều kiện phục vụ tốt nhất cho một chuyến dã ngoại. Tuy nhiên, nơi đây vẫn còn giữ được những nét hoang sơ vốn có của đại ngàn. Vào những ngày nghỉ lễ lớn, thác Trắng sẽ là một thắng cảnh bạn không thể bỏ qua trong hành trình trải nghiệm và khám phá cùng người thân, bạn bè.

Để đến với địa điểm du lịch hoang sơ này, du khách sẽ vượt qua đèo Eo Gió nằm tiếp giáp giữa huyện Nghĩa Hành và Minh Long. Càng đến gần địa bàn huyện miền núi Minh Long, quang cảnh cũng bắt đầu thay đổi dần với những rẫy chè, nương sắn, thửa ruộng của đồng bào H’rê hai bên đường.

Dòng suối sau khi băng qua đồi núi và những cánh rừng nguyên sinh đã “thả mình” rơi xuống từ độ cao hơn 40 m. Từ trên cao, nước chảy xuống trắng xóa như đang trang trí cho sườn núi đá dốc đứng. Dòng nước trắng xóa nổi bật giữa màu xanh của cây rừng, của núi đá tạo nên một khung cảnh kỳ vĩ. Cũng chính vì thế, người dân địa phương đặt tên cho nơi này là thác Trắng.

Dưới chân thác Trắng là hồ nước tự nhiên rộng hàng trăm mét vuông, xanh biếc và mát lạnh ngay cả trong những ngày nắng nóng nhất. Từ chân thác này, nước theo con suối rộng khoảng 20 mét, lô nhô đá tảng giữa dòng, quanh có uốn khúc trong thung lũng trước khi chảy ra hợp nước với các khe suối khác. Giữa mùa hè nóng bức mà đến thác Trắng với không khí mát lành thì thật tuyệt.

Làng Ðố xưa chỉ là rừng hoang, chỉ có một ít đồng bào Hrê đến cất chòi giữ trâu. Nay Ðố đã trở thành một làng Hrê định canh định cư, vẫn với nếp nhà cổ truyền, nhưng lợp ngói, khang trang đẹp đẽ. Hồ nước dưới chân thác Trắng và lòng suối có nhiều cá niêng được xem như một đặc sản mà bất cứ khách từ đâu cũng ưa thích.

Mỗi ngày có hàng trăm lượt khách đến chiêm ngưỡng vẻ kỳ vĩ, hoang sơ của dòng thác, đá núi, những cánh rừng và thỏa sức vẫy vùng trong dòng nước mát lạnh. Nếu ai muốn đến với thác Trắng hãy tìm sự giúp đỡ của người dân bản địa. Họ sẽ cho bạn nhiều kinh nghiệm qua suối khi nước chảy xiết, chỉ cho bạn biết nơi đâu nước lớn, có hố sâu, chỗ nào nhiều vắt.. Và để thêm yêu con người, vùng đất nơi đây.

Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Thuyết Minh Về Quảng Ninh 🌟 15 Bài Giới Thiệu Quảng Ninh

Bài thuyết minh về chứng tích Sơn Mỹ Quảng Ngãi sẽ nhắc nhớ bạn đọc về một trong những địa điểm gắn liền với những bi thương và mất mát của đất nước trong cuộc chiến tranh bảo vệ tự do và hoà bình.

Bên cạnh giá trị lịch sử, khu di tích Sơn Mỹ là nơi ghi tội ác điển hình của giặc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, là nơi tưởng niệm 504 đồng bào ta đã ngã xuống, nơi đây còn có giá trị về du lịch.

Di tích vụ thảm sát Sơn Mỹ nằm trên địa bàn xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, cách thành phố Quảng Ngãi 13km về phía đông bắc. Ngày 16/3/1968, một cuộc hành quân huỷ diệt dã man chưa từng thấy, được quân xâm lược Mỹ mưu tính và thực hiện, đánh vào người dân Sơn Mỹ vô tội không một tấc sắt trong tay.

Với chủ trương đốt sạch, phá sạch, giết sạch, chúng đã biến nơi này thành vùng đất chết. Lính Mỹ đã đổ bộ xuống phía tây xóm Thuận Yên thôn Tư Cung và xóm Gò thôn Cổ Lũy và cuộc thảm sát bắt đầu. Số người bị tàn sát ở thôn Tư Cung là 407 người, tại thôn Mỹ Hội là 97 người. Tổng số người bị tàn sát ở Sơn Mỹ là 504 người, trong đó có 182 phụ nữ, 173 trẻ em, 60 cụ già, 24 gia đình bị giết sạch, 247 ngôi nhà bị thiêu cháy. Vụ thảm sát Sơn Mỹ là đỉnh cao trong muôn vàn tội ác của đế quốc Mỹ đối với nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa, bị cả loài người lên án.

Khu di tích vụ thảm sát Sơn Mỹ là một tổng thể các địa điểm nơi ghi dấu tội ác của giặc Mỹ đối với đồng bào ta. Khu chứng tích Sơn Mỹ, diện tích 2,4ha, nằm ở xóm Khê Thuận (thôn Tư Cung, xã Tịnh Khê) cạnh tỉnh lộ 24B từ thị xã Quảng Ngãi đi Sơn Mỹ – Mỹ Khê – Sa Kỳ và cách cụm di tích: ruộng ông Nhiều, tháp canh, đường làng khoảng 400m. Di tích nằm tách biệt với nhà dân bao gồm các di tích gốc đã được bảo tồn tôn tạo và các công trình về sau này mới được xây dựng như: nhà trưng bày bổ xung, nơi tiếp khách, tượng đài, tượng vườn.

Cụm di tích bao gồm ruộng ông Nhiều, tháp canh, gốc cây gòn nằm ở xóm Khê Thuận và điểm di tích vườn ông Phạm Minh (Khê Ðông), Phạm Hội (Khê Tây). Ðiểm di tích: hầm chống pháo của gia đình ông Lý Lệ, ông Ngô Mân tại xóm Mỹ Hội (thôn Cổ Lũy). Các điểm di tích mộ chôn chung các nạn nhân bị thảm sát.

Bên cạnh giá trị lịch sử, khu di tích Sơn Mỹ là nơi ghi tội ác điển hình của giặc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, là nơi tưởng niệm 504 đồng bào ta đã ngã xuống. Sơn Mỹ còn có giá trị về du lịch, nằm trong tuyến du lịch Thiên Ấn (khu mộ cụ Huỳnh Thúc Kháng) – Châu Sa – Sơn Mỹ – Mỹ Khê – Dung Quất. Hàng năm có hơn 5 vạn người đến Sơn Mỹ tham quan. Hiện nay, mỗi tháng có gần 3.300 lượt khách đến tham quan.

Ðến Sơn Mỹ hôm nay, du khách có thể dừng lại trước bức tượng để cảm nhận nỗi đau tột cùng của nạn nhân Sơn Mỹ ngày ấy. Bên trong nội thất Nhà Chứng tích, du khách có thể xem nhiều hiện vật còn được lưu giữ: đó là chiếc mâm thau cũ còn lỗ chỗ vết đạn, chiếc áo, đôi dép của một cháu bé bị bắn chết; các loại chén đĩa, xoong chảo bị bắn thủng vỡ, chiếc mõ tụng kinh của nhà sư Thích Tâm Trí còn tìm lại được. Trong những hiện vật đó, còn tìm thấy chiếc kẹp tóc của cô Nguyễn Thị Huỳnh. Sau khi cô bị sát hại, người yêu cô đã tìm nhặt lại được chiếc kẹp tóc ấy, trân trọng giữ gìn nó suốt 8 năm trời trước khi giao nó cho Nhà Chứng tích…

Bên ngoài khuôn viên chứng tích, rải rác đó đây trong các xóm thôn là những tấm bia dựng lên ở các địa điểm đã xảy ra các cuộc bắn giết. Ðây là tháp canh ở rìa làng, bên con đường đất nhỏ xóm Thuận Yên với 102 người bị bắn chết. Kia là cây gòn nơi 15 phụ nữ và trẻ em bị sát hại.

Ở xóm Mỹ Hội, bây giờ bóng dừa đã vươn cao, ngoài kia biển xanh vẫn xua những đợt sóng bạc đầu vào bãi cát vàng sạch sẽ, duyên dáng, đúng là một cảnh đẹp có hạng ở Việt Nam. Giữa những khung cảnh trầm lắng thân thương ấy là tấm bia ghi dấu 97 người dân ở xóm bị tàn sát ngày nào.

Tìm hiểu hướng dẫn 🔥 Kiếm Thẻ Cào Miễn Phí 🔥 Kiếm Tiền Online Kiếm Thẻ Cào

Chùa Ông hay chùa Ông Thu Xà là một trong “ngũ đại danh tự” của tỉnh Quảng Ngãi (cùng với chùa Hang Lý Sơn, chùa Thiên Ấn, chùa Hoa Nghiêm và chùa Diêm Điền), được công nhận là Di tích quốc gia năm 1993.

Chùa tọa lạc tại thị tứ Thu Xà, xã Nghĩa Hòa (trước đây thuộc huyện Tư Nghĩa, nay thuộc TP. Quảng Ngãi), cách trung tâm thành phố khoảng 10 km về hướng đông. Chùa Ông Thu Xà được người Hoa Minh Hương sống ở vùng Thu Xà xây dựng vào năm Minh Mạng thứ hai (năm 1821). Trải qua nhiều lần trùng tu, đến nay chùa vẫn giữ được gần như kiến trúc ban đầu. Trong gần 200 năm tồn tại, ngôi chùa này là nơi sinh hoạt tâm linh chung của cả người Hoa và người Việt tại Thu Xà.

Về quy mô, chùa Ông Thu Xà nhỏ hơn so với các chùa thờ Quan Công ở Hội An (Quảng Nam). Tuy nhiên, chùa lại có sự kết hợp hài hòa các yếu tố kiến trúc Việt – Hoa trong một tổng thể giàu tính thẩm mỹ. Từ ngoài vào, các công trình của chùa gồm tam quan, bình phong và trụ biểu, lầu trống và lầu chuông, chánh điện được bố trí theo một trục đạo với một bố cục chặt chẽ, đăng đối và tuần tự.

Về tổng thể, chùa có kiến trúc hình chữ “tam” với ba khối nhà liền nhau: tiền đường, chánh đường và hậu cung. Chánh đường thờ Quan Vũ, hậu cung thờ Quán Thế Âm Bồ Tát. Đây là mô hình “tiền thánh hậu phật” rất phổ biến trong kiến trúc chùa của người Minh Hương ở Việt Nam. Nghệ thuật trang trí ở chùa Ông Thu Xà cũng đạt đến trình độ tinh xảo, đặc biệt là các kỹ thuật chạm nổi, chạm thủng, chạm lộng trên các bình phong, cột, khám thờ, tượng, diềm bia…

Tại chùa Ông Thu Xà hiện còn lưu 6 bia đá viết bằng chữ Hán được tạo dựng vào các năm 1895 và 1920, ghi lại việc trùng tu chùa. Các bia này được trang trí bằng hình chạm nổi lưỡng long tranh châu. Đây là những bia đá có giá trị lịch sử và mỹ thuật.

Về vùng Tư Nghĩa (Quảng Ngãi), ngoài đặc sản kẹo gương Thu Xà nổi tiếng, du khách đừng bỏ lỡ cơ hội đến vãn cảnh chùa Ông Thu Xà. Về đây, du khách sẽ được chứng kiến những nét tinh hoa trong kiến trúc chùa, được nghe các vị cao niên kể những giai thoại gắn với chùa và nhất là cảm nhận được sự bình yên, thư thái trong tâm hồn.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Quảng Bình 🍀 15 Bài Giới Thiệu Quảng Bình

Đến Quảng Ngãi, sẽ chưa thật trọn vẹn nếu bạn chưa một lần lên núi vãn cảnh chùa Thiên Ấn. Đây là một trong những danh tự của tỉnh Quảng Ngãi, được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia vào năm 1990.

Thiên Ấn cổ tự tọa lạc trên đỉnh núi Thiên Ấn, thuộc xã Tịnh Ấn, huyện Sơn Tịnh, cách sông Trà Khúc và TP. Quảng Ngãi khoảng 3 km. Cùng với chùa Hoa Nghiêm (TP. Quảng Ngãi), chùa Ông Thu Xà (huyện Tư Nghĩa), chùa Hang (huyện đảo Lý Sơn), chùa Diêm Điền (huyện Sơn Tịnh), chùa Thiên Ấn là một trong những ngôi cổ tự lâu đời nhất ở xứ Cẩm Thành.

Theo một số tài liệu, chùa Thiên Ấn được khởi công xây dựng vào năm 1694, hoàn thành cuối năm 1695, do thiền sư Pháp Hóa (1670-1754) sáng lập. Năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1716, đời vua Lê Dụ Tông ở Đàng Ngoài), chúa Nguyễn Phúc Chu (Đàng Trong), một người sùng đạo Phật, đã ban cho chùa biển ngạch “Sắc tứ Thiên Ấn tự”. Như vậy, từ khi khai sơn đến nay, chùa Thiên Ấn đã trải qua hơn 300 năm, với 15 đời trụ trì, trong đó có 6 vị được tôn là sư tổ, gọi chung là “lục tổ”.

So với các danh tự khác, chùa Thiên Ấn có kiến trúc đơn giản hơn. Nhà phương trượng của chùa được xây theo kiến trúc nhà rường. Trong khuôn viên chùa có giếng cổ sâu hơn 50 thước, xây bằng đá ong đẽo nhẵn, nước ngọt và trong, gọi là giếng Phật, tương truyền do sư tổ của chùa tự đào trong suốt 20 năm, đến khi giếng hoàn thành thì sư viên tịch.

Trong chùa còn có một chuông đồng lớn, tục gọi chuông Thần, được thỉnh về từ làng đúc đồng Chí Tượng (nay là xã Đức Hiệp, huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi) vào năm 1845 dưới thời vua Thiệu Trị. Điểm đặc biệt nhất của ngôi cổ tự này là địa thế trên đỉnh Thiên Ấn,một ngọn núi linh thiêng trong tâm thức của người dân Quảng Ngãi.

Phía đông của chùa, nằm dưới hàng cây cổ thụ là các ngôi bảo tháp, nơi an táng các vị sư tổ và sư trụ trì của chùa. Trong chùa còn có nhiều hạng mục mới xây như vườn cây Lâm tì ni, bảo tháp 9 tầng, tượng Quan Âm Bồ Tát… Cũng trên đỉnh Thiên Ấn, gần chùa theo hướng tây là phần mộ của nhà yêu nước Huỳnh Thúc Kháng được người dân địa phương an táng vào năm 1947. Cùng với chùa Thiên Ấn, mộ cụ Huỳnh đã được công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia.

Vãn cảnh chùa Thiên Ấn, du khách như lạc vào cõi thiền giữa cảnh núi rừng tĩnh mịch, không khí trong lành, không gian yên ắng, khoáng đãng khiến lòng người thư thái, thanh tịnh như được gọt rửa hết bụi trần. Đỉnh núi Thiên Ấn bằng phẳng, có nhiều loại cây ăn quả, các hàng cây cổ thụ và những con đường len lỏi giữa núi rừng, là nơi bộ hành thưởng cảnh lý tưởng. Từ chùa Thiên Ấn nhìn về phía sông Trà Khúc, cả một vùng rộng lớn như thu vào tầm mắt, du khách sẽ cảm được hết tình quê hương, non nước của người Quảng Ngãi trong câu ca dao đã từ lâu đi vào tâm thức con người nơi đây:

Về Quảng Ngãi, du khách hãy tạm gác lại những bề bộn cuộc sống, một lần lên đỉnh non thiêng vãn cảnh chùa Thiên Ấn. Rời khỏi chốn đô thị ồn ào, lên Thiên Ấn lạc vào cõi Phật, bạn sẽ thấy lòng mình an yên, thư thái hơn nhiều…

Đón đọc tuyển tập 🌟 Thuyết Minh Về Phú Thọ 🌟 15 Bài Giới Thiệu Phú Thọ Hay

Núi Thiên Ấn nằm ở phía Bắc sông Trà Khúc, cách quốc lộ 1 không xa, nằm cạnh quốc lộ 24B cách trung tâm thành phố Quảng Ngãi hơn 3km về hướng Đông Bắc.

Núi Thiên Ấn cao 106 mét, dáng núi hình thang cân, nhìn từ hữu ngạn sông Trà, tựa như chiếc ấn của trời niêm xuống dòng sông, vì vậy người xưa gọi đây là “Thiên ấn Niêm Hà” (ấn trời đóng trên sông) với niềm tin đây là ngọn núi thiêng chi phối lịch sử và con người Quảng Ngãi. Con đường đi lên đỉnh núi, men theo sườn núi từ phía Nam theo hình xoắn ốc chiều kim đồng hồ, lòng đường rộng, độ dốc không lớn, có thể dùng xe các loại lên xuống. Ngoài ra còn có đường tắt kè đá thành những bậc cấp dùng cho người đi bộ.

Đỉnh núi Thiên Ấn bằng phẳng, rộng khoảng 10ha tạo thế nhìn bao quát một vùng không gian rộng lớn những ruộng đồng, đồi núi, sông nước, làng mạc hợp thành một bức tranh phong cảnh hữu tình. Núp dưới bóng lùm cây cổ thụ, chiếm một diện tích tương đối lớn là ngôi chùa cổ Thiên Ấn, được xây vào cuối thế kỷ XVII và khu viên mộ với các lăng mộ hình tháp, uy nghi. Cách ngôi chùa không xa, chếch về hướng Tây Nam là mộ nhà yêu nước Huỳnh Thúc Kháng với tấm bia mộ cao thanh thoát có thể nhìn thấy từ phía xa.

Chùa Thiên Ấn được xây dựng vào năm 1694 và hoàn thành vào cuối năm 1695. Tổ khai sơn chùa Thiên Ấn là thiền sư Pháp Hóa (1670-1754), tục danh Lê Diệt, hiệu Minh Hải Phật Bảo, gốc người tỉnh phúc Kiến, Trung Hoa, thuộc dòng thiền Lâm Tế. Lúc đầu chùa chỉ có 1 am nhỏ, sau đó được dần trùng tu mở rộng thu hút được nhiều tăng ni phật tử và trở nên nổi tiếng. Năm Vĩnh Thịnh thứ 11(1717, đời vua Lê Dụ Tông), chúa Nguyễn Phúc Chu, là người rất sùng mộ đạo Phật đã ban cho chùa biển ngạch SẮC TỨ THIÊN ẤN TỰ. Tấm biển này sau đó bị hư hại và được thiền sư Hoàng Phúc tái tạo vào năm 1916.

Từ khi khai lập đến nay, chùa đã có 15 đời sư trụ trì, trong đó có 6 vị được suy tôn là sư tổ. Chùa đã trãi qua 5 lần trùng tu vào các năm 1717, 1827, 1910,1918, 1959. so với các ngôi chùa cổ trong Nam ngoài bắc, kể cả chùa Ông Thu Xà, chùa Thiên Ấn không nổi bật lắm về kiến trúc nội thất, trừ nhà phương trượng được xây dựng theo kiến trúc nhà rường, vốn là bộ khung mua lại của đình làng Phú Nhơn.

Bù lại chùa được xây dựng ở vị trí có 1 không 2, đó là đỉnh đồi Thiên Ấn, một thế đất thiêng trong tâm tưởng người dân Quảng Ngãi. Không những đông đảo tăng ni phật tử toàn tỉnh tôn xưng ngôi vị tổ đình, mà đối với người dân, ngôi chùa này có một sự gắn bó bền chặt trong tâm linh, thể hiện qua các giai thoại như giếng Phật, chuông Thần và nhiều câu ca dao sâu nặng nghĩa tình được truyền miệng từ đời này sang đời khác.

Khu viên mộ, nơi an táng các vị sư tổ và các thiền sư trụ trì, nằm tiếp phía Đông Thiên Ấn Tự, với những ngôi bửu tháp xây dựng nhiều tầng theo số lẻ (5,7,9) và tượng hình hoa sen, bên trong tháp là nói chôn giữ di hài, phía ngoài là bia ghi công đức, gắn liền vói thân tháp. Chính khu viên mộ này là nơi gìn giữ bảo thân của 6 vị thiền sư nổi tiếng, kế tục trụ trì chùa Thiên Ấn, gìn giữ, mở rộng chùa cũng như mang giáo lý từ bi, hỷ xả các Đức Phật đến với đông đảo tín đồ trong tỉnh.

Cách ngôi chùa không xa, về phía Tây Nam là mộ chí nhà yêu nước Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947). Cụ Huỳnh Thúc Kháng là một nhà báo nổi tiếng, sáng lập và chủ bút báo Tiếng dân, tác giả Thi tù tùng thoại và nhiều văn phẩm có giá trị về văn học và lịch sử, Bộ trưởng Bộ nội vụ chính phủ liên hiệp kháng chiến, quyền Chủ tịch nước VNDCCH trong thời gian Hồ Chủ Tịch sang Pháp dự hội nghị Fontainebleau. Là người Quảng Nam nhưng cụ có nhiều gắn bó với Quảng Ngãi.

Ở Thiên Ấn, ngoài lễ tưởng niệm cụ Huỳnh do chính quyền tổ chức hàng năm, còn có các lễ hội tôn giáo do nhà chùa và tín hữu tự đảm trách. Trong những dịp lễ lớn, số người đến viếng Thiên Ấn lên đến hàng vạn, trong đó không ít người từ phương xa về.

Thắng cảnh Thiên Ấn được bảo tồn khá nguyên vẹn. Mấy năm gần đây cùng với việc nhà nước đầu tư kinh phí tôn tạo mộ cụ Huỳnh, tín hữu Phật giáo cũng vận động quyên góp công sức trùng tu ngôi chùa, sửa sang tam quan… tổ chức trang trọng các ngày lễ lớn. Số người đến viếng chùa ngoạn cảnh ngày càng nhiều nhất là các ngày lễ và ngày nghỉ cuối tuần.

SCR.VN tặng bạn 💧 Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí 💧 Kiếm Thẻ Cào Free

Cá bống sống nhiều ở đoạn sông Trà từ đuôi xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh thẳng ra biển. Đoạn này nước sông Trà trong vắt, con cá bống lủi dưới cát trắng nên thịt dai, thơm, mình thon cỡ ngón tay út, nhưng để có món cá bống kho tiêu hảo hạng nhất thiết phải là con cá bống cát sống ở giữa sông. Ấy mới chính là cá bống sông Trà chính hiệu làm say lòng thực khách. Khoảng tháng 3 đến tháng 5 âm lịch, cá bống nhiều nhất, lúc này cá nhiều trứng, mập, béo ngậy.

Người Quảng Ngãi cũng không biết cá bống có mặt ở sông Trà từ bao nhưng cứ đến tháng 1 đến tháng 8 Âm lịch hàng năm, những đàn cá bống lại ngược dòng từ cửa sông về thượng nguồn. Đây cũng là mùa đánh bắt chính của người dân. Người dân đánh bắt bằng lưới hoặc thả ống. Trên lưới có gắn các vỏ ốc, vỏ sò lớn để lưới chìm được. Thời gian kéo lưới từ 6 giờ sáng tới buổi trưa.

Mặc dù món canh chua cá bống ngon nhưng kho tiêu vẫn là ngon nhất. Muốn có món cá kho tiêu ngon thì con cá phải còn sống. Cho cá vào rổ xát với muối cho sạch vẩy rồi ướp cá với chút đường, nước mắm, muối, tiêu, bột ngọt,… cho thấm trước khi kho. Nghe đơn giản nhưng phải biết cách kho nếu không cá nát hết. Để cho ra món cá kho đặc sản đúng hương vị xứ Quảng thì phải dùng các đặc sản xứ Quảng như nước mắm Kỳ Tân, đường trắng An Thới, tỏi Lý Sơn, tiêu rừng vừa thơm vừa cay. Cá được kho rim với lửa nhỏ liu riu rồi tắt bếp, cá quéo lại, thịt săn chắc, rất thơm ngon.

Cá bống kho ngon nhất vẫn là kho bằng cái trách đất, niêu đất, để các hương vị được chất thổ dẫn truyền hòa quyện vào nhau, thấm cái vị thơm nồng của đất mẹ vào từng thớ cá, tạo ra một hương thơm quyến rũ khó cưỡng, khiến bụng đói cồn cào. Món cá bống kho tiêu đưa với cơm nóng, rau luộc thì thật không gì bằng. Cá kho mặn mặn ăn cùng cháo trắng hành hoa thì mồ hôi túa ra, ăn xong thấy người khoan khoái.

Cá bống tự nhiên kết hợp cùng tiêu và các loại gia vị tạo thành món ăn đặc sản thơm ngon của vùng đất Quảng Ngãi, làm say lòng nhiều thực khách.

Gợi ý cho bạn 🌳 Thuyết Minh Về Ninh Bình 🌳 16 Bài Giới Thiệu Ninh Bình Hay

Nhum biển, hay còn gọi là cầu gai, nhím biển được ví như “nhân sâm” của biển, đặc sản của vùng ven biển Sa Huỳnh (thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi). Người dân nơi đây đã chế biến nhum biển thành đặc sản “mắm nhum” mà chỉ có ở Sa Huỳnh.

Kéo dài từ tháng 4 đến tháng 6, ngư dân ven biển xã Phổ Châu (thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi) vào mùa săn nhum biển trên gành rạng. Nhum thường xuất hiện ở khu vực gành Trọc, gành Nhu – hai lũy đá ở hai đầu bãi biển thôn Châu Me là nơi “bám đá” của loài nhum biển. Lúc này, ngư dân mang theo đồ nghề của một thợ lặn, tay cầm thêm một đoạn sắt dài khoảng nửa mét với một bên đầu được bẻ cong như lưỡi câu và đầu còn lại cắm vào cán gỗ dùng để nạy nhum khỏi đá.

Trung bình mỗi lần đi săn nhum, ngư dân phải ngụp lặn liên tục từ sáng cho đến tận trưa nắng. Công việc vất vả, tiềm ẩn nhiều hiểm nguy khi dưới gành rạng phủ rêu trơn trượt, sơ sẩy thì chân liền giẫm phải những “quả cầu gai”, nhưng trong năm chỉ có một mùa khai thác, nên ai nấy đều dốc sức. Từ sau mùa đông thì dưới những gành rạng những con nhum bắt đầu mùa sinh sản. Trời mùa đông, biển động thuyền không thể ra gành rạng vì sóng lớn, phải qua hết mùa sinh sản, nhum dần “trưởng thành” thì ngư dân mới hành nghề bắt nhum.

Nhum ở Sa Huỳnh rất ngon, có lẽ vì gặp dòng nước biển hợp nên nhum vừa béo ngậy lại vừa thơm. Sau khi bắt về, phải dùng muỗng nạo thịt nhum bên trong cho vào một cái chum lớn và bỏ muối vào tỷ lệ tương ứng, đậy thật kỹ khoảng 15-20 ngày, cho đến khi đặc sền sệt, thơm rưng rức. Mắm nhum là thứ nước chấm ngon tuyệt và là đặc sản tiến vua của người dân Quảng Ngãi xưa. Cứ khoảng 100 con nhum được 1 kg thịt và đem ủ mắm, ngày nay lượng khai thác nhum không nhiều và chỉ vào mùa thì dưới gành đá mới tìm thấy nhum.

Thịt nhum chế biến được nhiều món ăn tuyệt hảo như: nhum nướng, nhum sống ăn với cải bẹ xanh, tuy nhiên có lẽ mắm nhum vẫn là món được người dân địa phương yêu thích nhất. Theo kinh nghiệm của người dân địa phương, mắm nhum ngon nhất khi ăn cùng thịt lợn luộc, bún và rau sống. Khi miếng thịt chấm vào tô mắm có pha chút ớt, người ăn sẽ cảm nhận được vị ngọt bùi đọng trên đầu lưỡi.

Từ lâu nghề bắt nhum và làm mắm nhum đã trở thành đặc sản của người dân xã Phổ Châu. Cư dân ven biển xã Phổ Châu chỉ khai thác khi đúng vụ nhum từ tháng 4 đến tháng 6, riêng cả mùa đông là mùa sinh sản thì người dân không khai thác. Mỗi người dân ở đây đều tham gia bảo vệ sự sinh sản tự nhiên của nhum. Chính vì vậy, mỗi năm, nhum luôn xuất hiện dày đặc khi vào mùa khai thác.

Thời xưa, mắm nhum nằm trong danh sách những sản vật tiến vua. Và có lẽ chính vì lẽ đó mà cho tới ngày nay, mắm nhum còn có tên là mắm tiến vua hay mắm quý tộc. Với ai từng có cơ hội thưởng thức món mắm này có lẽ sẽ nhớ mãi không quên.

Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Ở Ninh Thuận ☀️ 15 Bài Đặc Sắc

Đón đọc bài thuyết minh về món don Quảng Ngãi và cùng khám phá một trong những món đặc sản chỉ có ở vùng biển của vùng đất này.

Có những món ăn chỉ nghe tên cũng có thể hình dung ra hương vị nhưng cũng có món dù nhắc đi nhắc lại bao nhiêu lần, người ta cũng chẳng tưởng tượng nổi hình thù, nguồn gốc của chúng ra sao. Don – đặc sản chỉ có ở Quảng Ngãi là một trong những món ăn như vậy.

Con don là loài nhuyễn thể gần giống với hến, vỏ có hai mảnh hình dẹt và dài chỉ khoảng 1 cm, bên trong phần thịt có màu trắng đục và tua xung quanh. Don có ở sông Trà Khúc và sông Vệ nhưng phần lớn tập trung ở sông Trà Khúc. Đặc biệt, do đặc điểm dòng nước khác nhau nên con don chỉ sinh sống phần lớn ở đoạn chảy qua xã Nghĩa Hòa, Nghĩa Phú (TP Quảng Ngãi – đoạn gần cuối nguồn dòng sông), còn những nơi khác hầu như không có hoặc rất ít.

Thường vào mùa khô hạn (khoảng từ tháng 4 đến tháng 9 hằng năm), người dân xung quanh hai con sông trên mới vào mùa cào don. Do sống vùi trong cát nên việc cào don rất cực khổ với người dân nơi đây, đặc biệt là những hôm gặp nước lớn, người cào phải ngâm mình trong nước.

Don khi được cào về sẽ được chà vỏ, rửa thật sạch, ngâm cho nhả hết cát, rồi đun nước luộc cho đến khi há miệng. Sau đó, tách riêng phần nước luộc don và con don, dùng đũa khuấy đều cho phần thịt rớt ra khỏi vỏ. Sau khi đã tách vỏ, phần thịt bỏ vào nước luộc don nấu lại, tùy khẩu vị mà nêm nếm cho vừa miệng, nhưng nhất thiết phải có một chút cay the từ ớt để tăng độ kích thích.

Món don sau khi chế biến xong chỉ gồm một tô nước có màu trắng đục, trong có chứa nhiều con don nhỏ xíu. Để thêm món ăn được đậm đà, tô don nhất thiết phải có ít hành tây thái mỏng và một ít bánh tráng sống hoặc chín tùy theo sở thích. Khi nhận tô don nóng hổi bốc khói, du khách dằm thêm trái ớt hiểm, đơn giản vậy nhưng đi sâu vào tâm trí của mỗi người con Quảng Ngãi khi xa quê hương.

Theo những bậc cao niên, ngày xưa món don chỉ thịnh hành ở những vùng quê nghèo khó và thường được những phụ nữ luống tuổi quảy gánh đi bán dạo cho những người lao động cực khổ vào lúc xế, chiều. Có lẽ chính vì cuộc sống cơ cực, nghèo khó đó mới có món don, bởi vậy khi nhắc đến món này, nhiều người dân Quảng Ngãi hình dung đó là món ăn dân dã, nóng hổi, cay nồng như chính hơi thở, cuộc sống cực khổ của con người nơi đây…

Ngày nay, khi đi ngang qua Quảng Ngãi, du khách có thể thưởng thức món don ở nhiều hàng quán khắp nơi. Còn ở những thành phố lớn như Đà Nẵng, TP HCM… món don cũng được bày bán nhưng rất ít địa điểm và không còn giữ được vị tươi ngon của don, không còn “mùi” hơi thở, “mùi” cuộc sống khổ cực của chính món don Quảng Ngãi.

Với những hương vị mang nét rất riêng, món don Quảng Ngãi đã được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam công nhận là 1 trong 4 sản vật Quảng Ngãi. Don và cá bống sông Trà cũng nằm trong số 50 món đặc sản nổi tiếng Việt Nam.

Đừng bỏ lỡ cơ hội 🍀 Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí 🍀 Card Viettel Mobifone

Tham khảo bài viết giới thiệu về Quảng Ngãi bằng tiếng Anh giúp các em học sinh luyện tập cách sử dụng các cấu trúc ngữ pháp và trau dồi vốn từ vựng.

Tiếng Anh:

Quang Ngai is a province in the Central Central Coast with the common feature of mountains encroaching on the sea, the terrain is transitional from the coastal plain in the east to the high mountainous terrain in the west.

With a coastline stretching over 130km and a diversity of geology and geomorphology, Quang Ngai has created majestic and beautiful landscapes. Beautiful beaches such as My Khe, Sa Huynh, Binh Chau… and rich and unique marine ecosystems. In recent years, Quang Ngai tourism products have been increasingly diversified and the quality has been improved. Among them are products associated with sea and island tourism. This is the main type of tourism in the province.

Quang Ngai is also known as a land of talented people, with a long history, steadfastness in the two resistance wars of the nation with many illustrious feats and also the birthplace of many patriotic dignitaries sages, martial generals, revolutionary activists and talented leaders of the country.

Tiếng Việt:

Quảng Ngãi là tỉnh thuộc duyên hải Trung Trung Bộ với đặc điểm chung là núi lấn sát biển, địa hình có tính chuyển tiếp từ địa hình đồng bằng ven biển ở phía đông đến địa hình miền núi cao ở phía tây.

Với đường bờ biển trải dài hơn 130km và sự đa dạng của địa chất, địa mạo đã tạo cho Quảng Ngãi những cảnh quan hùng vĩ, tuyệt đẹp. Những bãi biển đẹp như Mỹ Khê, Sa Huỳnh, Bình Châu… và hệ sinh thái biển phong phú, đặc sắc. Trong thời gian qua, sản phẩm du lịch Quảng Ngãi ngày càng đa dạng, chất lượng được nâng cao. Trong đó nổi bật là các sản phẩm gắn với du lịch biển, đảo. Đây là loại hình du lịch chủ đạo của tỉnh.

Quảng Ngãi còn được biết đến là mảnh đất địa linh nhân kiệt, có bề dày lịch sử, kiên trung trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc với nhiều chiến công lẫy lừng và cũng là nơi sản sinh nhiều chí sĩ yêu nước, các vị hiền triết, võ tướng, các nhà hoạt động cách mạng và nhà lãnh đạo tài ba của đất nước.

Tìm hiểu nhiều hơn 🔥 Thuyết Minh Về Nghệ An 🔥 19 Bài Giới Thiệu Nghệ An Hay

Ai Là Người Việt Nam Đầu Tiên Bay Vào Vũ Trụ? Trải Nghiệm Về Chuyến Bay Đầu Tiên Chinh Phục Không Gian

Theo nguồn thông tin chính thống, chuyến bay lịch sử bắt đầu từ 21h33 ngày 23/7/1980 (theo giờ Moskva) từ sân bay vũ trụ quốc tế Baikonur, Liên Xô, và trở về Trái đất lúc 18h15 ngày 31/7/1980.

Chiếc tàu vũ trụ Liên hợp 37 (Soyuz 37) đã đưa nhà du hành vũ trụ của Việt Nam Phạm Tuân- Người Việt Nam đầu tiên bay vào vũ trụ. Cùng với nhà du hành vũ trụ Xô viết Gorbatko vào quỹ đạo. Tàu Liên hợp 37 khi được phóng lên quỹ đạo, có nhiệm vụ ghép nối với tổ hợp Chào mừng 6 – Liên hợp 36 (Salyut 6-Soyuz 36).

Phạm Tuân sinh ngày 14 tháng 2 năm 1947 tại Quốc Tuấn, Kiến Xương, Thái Bình. Ông đi bộ đội, được tuyển vào binh chủng Không quân Nhân dân Việt Nam năm 1965. Tốt nghiệp Trường phi công quân sự ở Liên Xô 

Năm 1980, sau khi vượt qua nhiều vòng tuyển chọn khắt khe. Anh hùng Phạm Tuân trở thành người Việt Nam đầu tiên có “hộ chiếu” bay lên vũ trụ”.

Ở thời điểm đó, ông kể: “Khi còn là phi công chiến đấu, tôi lái máy bay MIC 21 bay ở độ cao đôi chục cây số nhìn xuống đã thấy mặt đất lạ và đẹp lắm rồi: thấy biển, thấy rừng, thấy sông, thấy núi… Nhưng đến khi bay vào vũ trụ, lại chỉ nhìn thấy được một phần Trái Đất. Đường chân trời giống như cầu vồng, năm bảy màu rất đẹp”

Con tàu bay ngang qua hầu như mọi lãnh thổ. Ở xa nhìn lại không còn thấy ranh giới quốc gia. Trong điều kiện bất trắc xảy ra, con tàu có thể đáp xuống bất cứ điểm nào trên Trái Đất (trong phạm vi quỹ đạo).

Tuy nhiên, song song với sự thành công và tiếng tăm. Sẽ có một vài lời đàm tiếu không hay về anh hùng Phạm Tuân. Phạm Tuân đã khẳng định chắc nịch rằng: “Tôi cho rằng những người đó không hiểu gì về chuyến bay vũ trụ”. Con tàu vũ trụ đòi hỏi phải có hai người điều khiển. Gorbatko là người lái chính, điều khiển con tàu. Còn tôi là lái phụ, phụ trách các thông số kỹ thuật, bảng điều khiển. Việc phối hợp láichính-lái phụ phải ăn khớp. Không thể có chuyện người này điều khiển còn người kia chỉ ngồi nhìn”. 

Người Việt Nam đầu tiên bay vào vũ trụ là anh hùng Phạm Tuân đã giúp Việt Nam sánh vai cùng các cường quốc năm châu về mảng “du hành vũ trụ”. Ấn tượng vẻ vang ấy đã giúp Việt Nam đột phá trong việc tiếp biến ngoại nhập. Thông qua bài đọc, chúng ta dường như sống cùng với những cảm xúc dâng trào được

Advertisement

Ai phát minh ra bài tập về nhà? Liệu nó có thực sự cần thiết?

Liệu bạn có bất ngờ khi phát hiện ra ai là người đã phát minh ra trường học?

Ai là người đã sáng tạo ra thi học kì khiến học sinh đau đầu?

Ai là người đầu tiên phát minh ra máy rửa bát? Liệu nó có thực sự tiện lợi?

Bao nhiêu người đã từng đặt chân lên mặt trăng? Những phát hiện thú vị về mặt trăng?

Cập nhật thông tin chi tiết về Trương Đăng Quế – Người Đầu Tiên Ở Quảng Ngãi Đỗ Hương Tiến trên website Konu.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!