Bạn đang xem bài viết Dàn Ý Thuyết Minh Về Một Trò Chơi Dân Gian (3 Mẫu) được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Konu.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Văn mẫu lớp 8: Dàn ý thuyết minh về trò chơi dân gian gồm 3 mẫu, giúp các em học sinh lớp 8 tham khảo, có thêm nhiều vốn từ để biết cách lập dàn bài thuyết minh cách chơi trò chơi nhảy dây, kéo co… thật hay.
Đề bài: Hãy tự chọn một đồ chơi, trò chơi quen thuộc và lập dàn bài thuyết minh cách làm, cách chơi trò chơi đó. Yêu cầu trình bày rõ ràng, mạch lạc.
a) Mở bài
Giới thiệu về trò chơi dân gian bạn sẽ thuyết minh: kéo co, ô ăn quan, nhảy dây, trốn tìm,…
b) Thân bài
* Giải thích khái niệm:
Trò chơi dân gian là những hoạt động vui chơi giải trí do quần chúng nhân dân sáng tạo ra và được lưu truyền tự nhiên qua nhiều thế hệ, phản ánh đời sống tinh thần, văn hóa của dân tộc.
Trò chơi dân gian là hình thức sinh hoạt cộng đồng được nhân dân tiếp cận và gắn bó nhiều nhất, diễn ra mọi lúc, mọi nơi, không hạn định về mặt thời gian, không gian.
* Thuyết minh về một trò chơi cụ thể
– Tìm hiểu về nguồn gốc của trò chơi:
Trò chơi ra đời khi nào, lấy cảm hứng từ đâu?
Ngày nay trò chơi có còn phổ biến không hay được lưu giữ tại bảo tàng?
– Nêu những đặc điểm đặc trưng của trò chơi:
Số lượng người chơi
Độ tuổi thường chơi
Thời gian chuẩn bị
Thời gian chơi
Các kỹ năng cần thiết
– Các dịp tổ chức trò chơi (lễ hội, thi đấu…)
– Đối tượng tham gia trò chơi: độ tuổi, giới tính, …
– Giới thiệu về cách thức chơi và luật chơi
– Ý nghĩa của trò chơi dân gian:
Giải trí, tạo niềm vui cho con người
Nét văn hóa truyền thống của dân tộc.
c) Kết bài
Khẳng định lại ý nghĩa của trò chơi dân gian trong đời sống tinh thần của con người.
I. Mở bài
Giới thiệu chung: Nhảy dây là trò chơi mà các bạn gái ở lứa tuổi thiếu niên nhi đồng rất thích. Trò chơi nhảy dây được chơi trong lúc rảnh rỗi ở nhà hoặc vào giờ ra chơi ở trường.
II. Thân bài: Thuyết minh về trò chơi nhảy dây
1. Giới thiệu chung về trò chơi
Đối tượng chơi thường là các bạn gái ở tuổi thiếu nhi.
Trò chơi cần một khoảng đất vừa đủ rộng cho vòng dây quay.
Dây dùng để nhảy có thể là dây thừng, dây cao su, dây thun,…
2. Cách chơi
– Có hai kiểu nhảy dây là nhảy một người hoặc nhảy nhiều người.
+ Cách thứ nhất (nhảy một người):
Dùng một sợi dây đủ dài. Hai đầu dây cuốn vài vòng vào bàn tay để giữ cho chắc. Đặt chân lên chính giữa sợi dây, kéo cao cho vừa tầm người là được.
Người nhảy đứng thẳng, hai cổ tay quay đều dây về phía trước cho qua đầu, khi dây chạm sát đất thì nhảy lên. Vừa nhảy vừa đếm, để dây vướng chân là mắc lỗi, là phải dừng lại. Người thắng là người có số lần nhảy nhiều nhất.
+ Cách chơi thứ hai (nhảy nhiều người):
Hai người quay dây đứng cách nhau một khoảng cách đủ để dây chùng vừa chạm đất là được.
Quay dây đều tay. Lần lượt từng người hoặc hai, ba người cùng nhảy. Trò chơi này cần sự khéo léo. Nếu để dây chạm trúng chân thì phải ra quay dây cho các bạn khác vào nhảy.
III. Kết bài: Cảm nghĩ của em về trò chơi nhảy dây
Trò chơi nhảy dây vừa vui vừa bổ ích, rèn luyện sự nhanh mắt, nhanh chân và sức khỏe dẻo dai, có ích cho quá trình phát triển cơ thể của tuổi thiếu nhi.
Trò chơi gắn liền với tuổi thơ.
I. Mở bài: giới thiệu về trò chơi kéo co
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, thì cuộc sống con người trở nên tiện nghi và hiện đại hơn. Tuy nhiên, việc gì cũng có mặt lợi và mặt hại có nó, bất kỳ việc gì cũng thế. Nhất là khi các trò chơi hiện đại ra đời thì các trò chơi dân gian bị lãng quên, không ai nhắc tới hay chơi nó. Trò chơi dân gian rất thú vị và có tính giải trí rất cao nhưng bị lãng quên. Một trò chơi dân gian ngày xưa nhiều người chơi như trò chơi kéo co, một trò chơi rất thú vị.
II. Thân bài: thuyết minh về trò chơi kéo co
1. Lịch sử trò chơi kéo co:
Trò chơi kéo co đã xuất hiện từ thời cổ đại
Thời Ai Cập người ta không dung dây thừng để chơi
Kéo co được sử dụng phổ biến ở Trung Quốc vào thời Đường
Tại Hy Lạp, khoảng 500 năm trước Công nguyên, kéo co được xem như là một môn thi đấu và bài tập thể lực cho các môn thể thao khác.
2. Luật chơi trò kéo co:
Luật kéo co ở mỗi nơi khác nhau
Kéo co có 2 đội, mỗi đội dùng sức của mình giành chiến thắng
Kéo đến khi nào bên kia ngã về phía mình, giữa sợi dây có buộc một cái khăn đỏ,bên nào kéo đoạn dây có buộc khăn đỏ qua vạch của mình trước là thắng.
Có khi cả hai bên đều là nam, có khi bên nam, bên nữ.
III. Kết bài: nêu cảm nghĩ của trò chơi kéo co
Đây là một trò chơi thú vị và vui vẻ
Chúng ta nên giữ gìn các trò chơi gian dân như thế này.
Văn Mẫu Lớp 9: Thuyết Minh Về Một Làng Nghề Truyền Thống Dàn Ý &Amp; 8 Bài Thuyết Minh Lớp 9 Hay Nhất
Với 8 bài thuyết minh làng lụa Vạn Phúc, làng gốm của người Chăm, làng nghề nón lá, làng tranh Đông Hồ, làng làm hoa giấy Thanh Tiên, làng tơ Cổ Chất… các em sẽ nhanh chóng hoàn thiện bài văn thuyết minh của mình, để đạt kết quả cao trong các bài kiểm tra sắp tới. Mời các em cùng theo dõi:
Dàn ý thuyết minh về một làng nghề truyền thống1. Mở bài
Giới thiệu khái quát về làng nghề truyền thống của quê hương.
2. Thân bài
– Nêu cụ thể hơn địa chỉ của làng nghề: nằm ở đâu, cách đi đến và nhận dạng như thế nào?
– Nêu nguồn gốc, lịch sử hình thành của làng nghề truyền thống ấy:
Làng được hình thành, ra đời từ khi nào?
Lịch sử của làng gắn với sự kiện, nhân vật quan trọng nào?
Thời gian tồn tại và phát triển dài bao lâu?
– Chi tiết về làng nghề truyền thống ấy:
Trong làng có bao nhiêu gia đình theo nghề?
Khung cảnh làng như thế nào?
Sản phẩm truyền thống của làng nghề. Hiện nay, người dân trong làng vẫn duy trì phương pháp thủ công hay hiện đại. Nêu nét thay đổi, tiến bộ trong hoạt động làm nghề của con người nơi đây.
Quá trình những người nghệ nhân làm nghề có gì đặc biệt, gây ấn tượng với em.
Sản phẩm tạo ra có hình dáng, màu sắc như thế nào? Thể hiện nét đặc trưng chỉ thuộc về làng nghề này…
– Những sự vật, khung cảnh khác xung quanh làng nghề.
– Nêu vị trí, giá trị của làng nghề truyền thống ấy trên đất nước, với người dân nơi đây.
3. Kết bài
Khẳng định lại lịch sử lâu đời của làng nghề.
Tình cảm của bản thân với làng nghề đó.
Thuyết minh làng lụa Vạn PhúcHà Nội – thủ đô ngàn năm văn hiến, chốn phồn hoa đô thị và phát triển bậc nhất nước ta vẫn có nơi gìn giữ được nét tinh hoa văn hóa từ lâu đời đó chính là làng nghề truyền thống lụa Vạn Phúc hay còn gọi với cái tên gần gũi là Làng lụa Vạn Phúc. Có thể nói làng lụa Vạn Phúc chính là cái nôi của gấm lụa Việt Nam, các sản phẩm lụa của Vạn Phúc được đánh giá là đẹp nhất xứ Đông Dương.
Đặt chân đến đất Hà Thành đi về hướng Tây Nam Hà Nội là khu vực Hà Đông, làng lụa Vạn Phúc thuộc địa phận phường Vạn Phúc của quận Hà Đông, năm bên bờ sông Nhuệ cách trung tâm thủ đô hơn 10km. Hiện nay có rất nhiều tuyến đường dễ đi và nhanh chóng từ trung tâm đến với làng lụa Vạn Phúc. Mọi người có thể đi bằng phương tiện cá nhân, đi taxi, xe buýt hoặc xe buýt nhanh BRT chạy theo tuyến đường Nguyễn Trãi – Lê Văn Lương – Tố Hữu là tới phường Vạn Phúc. Đối với người dân Hà Đông nói chung và phường Vạn Phúc nói riêng, làng lụa Vạn Phúc đã trở thành biểu tượng, là trái tim và linh hồn nơi đây.
Sự khác biệt lớn nhất khiến mọi người nhận ra một làng nghề truyền thống giữa lòng thủ đô chính là cổng làng theo kiến trúc cổ. Cổng làng được xây bằng gạch đỏ kiến trúc tam quan, có gác và mái che, cổng lớn giúp cho các loại phương tiện ô tô dễ dàng qua lại. Về thăm làng lụa Vạn Phúc mọi người sẽ được quay ngược thời gian trở về với thời xa xưa cũ kĩ, những nét cổ kính thôn quê giữa chốn phồn hoa đô thị, đó là cổng làng, bia đá sừng sững, mái ngói đỏ rêu phong, cây đa cổ thụ bóng cả, giếng nước, sân đình. Chính cái nét truyền thống trong quá trình làm lụa Vạn Phúc đã mang cả một ngôi làng giữ lại những gì truyền thống và cổ kính nhất cho đến tận ngày nay.
Làng lụa Vạn Phúc tính đến nay đã gần 1100 năm tuổi, lịch sử của làng lụa này có từ thời bà A Lã Thị Nương vợ của thái thú Giao Chỉ Cao Biền dạy và truyền nghề nuôi tằm kéo tơ dệt lụa cho nhân dân. Ban đầu các sản phẩm lụa của làng có tên là Vạn Bảo, sau này do kỵ húy nhà Nguyễn đổi tên thành Vạn Phúc. Từ những năm 1930 khi nước ta còn chia hai miền Bắc Kỳ và Nam Kỳ, nhân dân Bắc Kỳ đã vô cùng tự hào khi lụa Vạn Phúc lần đầu giới thiệu ra thế giới năm 1931 tại hội chợ quốc tế Marseille, từ sau đó lụa Vạn Phúc trở thành mặt hàng xuất khẩu sang Đông u và nhiều nơi khác trên thế giới. Cho đến nay lụa Vạn Phúc ngày càng phát triển song vẫn gìn giữ được tinh hoa cổ truyền trong từng tấm lụa. Trong bối cảnh cạnh tranh với các sản phẩm lụa khác trên thế giới lụa Vạn Phúc vẫn vươn lên trong khó khăn, khẳng định giá trị truyền thống, chất lượng, ngày càng có vị thế trên trường quốc tế mặc cho các đối thủ khác luôn tìm cách làm nhái, làm giả thương hiệu.
Lụa Vạn Phúc có những nét riêng không thể tìm thấy được ở các sản phẩm lụa nơi khác, điều đó có được từ chính đôi bàn tay của người nghệ nhân, họ là người giữ bí kíp gia truyền, đem cả tâm và thân của mình vào trong sản phẩm. Họ đã phải mất rất nhiều tâm huyết và công sức để tạo ra được một tấm lụa cực phẩm. Một tấm lụa Vạn Phúc ra đời phải trải qua nhiều công đoạn, thời gian, ở mỗi công đoạn đều cần sự cẩn thận, tỉ mỉ và khéo léo, điêu luyện. Từ quá trình trồng dâu nuôi tằm, ủ tằm kéo kén, guồng tơ mắc cửi, dệt tơ nhuộm tơ… mặc dù hiện nay đã có nhiều máy móc hiện đại tiên tiến hỗ trợ nhưng vẫn không thể thay thế con người, máy móc chỉ là phụ trợ không đáng kể, chủ yếu vẫn là thủ công. Từng sợi tơ dệt nên dải lụa mềm chính là kết tinh của trời đất, thấm đượm công sức lao động, tình yêu và sự tài hoa của người nghệ nhân làng lụa.
Làng lụa Vạn Phúc không chỉ là một làng nghề truyền thống đơn giản mang lại giá trị hàng hóa mà đã vượt qua ý nghĩa đó, trở thành biểu tượng của truyền thống văn hóa dân tộc. Làng lụa Vạn Phúc đi vào thơ ca, bài hát, vào cuộc sống lao động sinh hoạt, giống như những câu hát trong bài “Áo lụa Hà Đông” luôn ngân vang, tha thiết trở thành dòng chảy bất tận trong mỗi người con Hà Đông.
Thuyết minh làng nghề làm gốm của người Chăm ở tỉnh Bình ThuậnĐồng bào dân tộc Chăm vốn sinh tụ ở duyên hải miền Trung Việt Nam từ rất lâu đời, đã từng kiến tạo nên một nền văn hoá rực rỡ với ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá Ấn Ðộ. Ngay từ những thế kỉ thứ XVII, người Chăm đã từng xây dựng nên vương quốc Chămpa. Người Chăm ở tỉnh Bình Thuận có truyền thống nông nghiệp ruộng nước, giỏi làm thuỷ lợi và làm vườn trồng cây ăn trái. Bên cạnh việc làm ruộng nước vẫn tồn tại loại hình ruộng khô một vụ trên sườn núi. Họ cũng rất giỏi trong việc dệt thủ công và buôn bán nhỏ. Làng nghề làm gốm của người Chăm ở tỉnh Bình Thuận là một trong những làng nghề cổ xưa, còn lưu giữ cho đến ngày nay.
Hiện nay, tại tỉnh Bình Thuận có 26 thôn của người Chăm, nhưng chỉ có người Chăm ở thôn Bình Đức, xã Phan Hiệp, huyện Bắc Bình còn làm gốm với kỹ thuật và quy trình thủ công truyền thống của cha ông họ. Theo các nghệ nhân cho biết, nghề gốm ở thôn Bình Đức có từ rất lâu, được các gia đình người Chăm nơi đây duy trì qua nhiều đời.
Quy trình làm gốm truyền thống của người Chăm thôn Bình Đức, xã Phan Hiệp, huyện Bắc Bình bao gồm nhiều khâu công việc, nhiều công đoạn kết nối với nhau.
Đầu tiên là việc chọn đất và lấy đất. Theo kinh nghiệm dân gian của các nghệ nhân cao tuổi, loại đất sét được sử dụng làm gốm phải có màu vàng nhạt, có độ dẻo và độ mịn vừa phải, không bị lẫn nhiều hạt sạn, sỏi nhỏ. Thời điểm lấy đất thường diễn ra vào mùa nông nhàn, trong mùa khô, khoảng tháng Một đến tháng Hai Âm lịch hàng năm. Công cụ dùng để đào bới và lấy đất gồm có: cuốc, xẻng, cúp (cuốc chim), xà beng và thúng. Trước đây, phương tiện chở đất bằng xe trâu (thă’ kupaw), ngày nay bằng xe cơ giới.
Có đất, người làm gốm phải đập, ủ, pha trộn và nhồi bóp đất. Việc xử lý đất trước khi làm gốm quyết định đến chất lượng và hiệu suất sản phẩm sau khi nung. Để có đất thành phẩm nhào nặn các sản phẩm gốm vào sáng ngày hôm sau, ngày hôm trước đất được đập và pha trộn, tùy theo nhu cầu sử dụng nhiều hay ít mà người thợ lấy một lượng đất vừa đủ, ít khi để dư lại qua ngày hôm sau.
Thợ làm gốm là những phụ nữ Chăm, họ tạo hình sản phẩm gốm không dùng bàn xoay, chỉ sử dụng những công cụ giản đơn theo phương pháp thủ công truyền thống. Dụng cụ tạo hình sản phẩm gốm khá đơn giản: một chiếc bàn kê (kathun hay lithung giơ yơng) và một miếng vải thô nhỏ. Đối với sản phẩm gốm có kích thước lớn và cồng kềnh, phải thao tác trên mặt sân bằng phẳng và phải do những nghệ nhân lớn tuổi, nhiều kinh nghiệm mới thực hiện được. Người thợ lấy một ít cát trắng rải đều lên mặt bàn kê rồi đặt đất sét lên để chống dính. Bằng thao tác hơi khum người xuống, hai chân dịch chuyển quanh bàn kê, người thợ dùng đôi bàn tay tạo dáng và thân sản phẩm.
Tùy từng loại hình và kích cỡ sản phẩm mà người thợ lấy thêm những lọn đất để nối vuốt cho phần thân sản phẩm cao dần lên, tay trái áp bên trong, tay phải vuốt mặt bên ngoài sản phẩm, người thợ dịch chuyển quanh bàn kê ngược chiều kim đồng hồ khoảng 5 vòng, sau đó dịch chuyển theo chiều ngược lại, là có thể tạo ra một dáng gốm cơ bản. Số vòng dịch chuyển tùy thuộc vào loại hình sản phẩm.
Tiếp theo, người thợ dùng một chiếc vòng tre vót mỏng vuốt lên mặt ngoài sản phẩm ướt để tạo độ đều và láng mịn, rồi dùng một miếng vải thô nhúng nước và dịch chuyển một vòng làm thao tác bẻ, vuốt miệng gốm cho đều, mịn. Mặt trong và ngoài miệng sản phẩm được vuốt nước thổ hoàng bằng miếng vải. Khi xương gốm ráo, người thợ tiếp tục nông thân và đáy (sửa cho đáy sản phẩm tròn, có độ dày đều), chà, nạo và làm bóng mặt trong và ngoài sản phẩm.
Sản phẩm gốm ướt được để khô tự nhiên ở nơi có bóng mát, ngoại trừ sản phẩm là các loại hỏa lò có thể phơi hoặc để ở nơi có nắng và gió to. Độ ráo của sản phẩm có ảnh hưởng quan trọng đến khâu chỉnh hình sau. Với các công cụ đặc thù, người thợ sẽ tiến hành nạo mặt trong thân và đáy sản phẩm, đồng thời nông sản phẩm từ đáy bằng thành đáy tròn; hoặc nông đáy và nạo bớt những chỗ dày mặt trong thân và đáy sản phẩm có kích cỡ nhỏ. Tiếp đó, người thợ dùng chiếc vòng (khoh) làm bằng cây duối để chà láng mặt trong thân và đáy, đồng thời, dùng bàn vỗ (khai poh) vỗ đều tay vào mặt trong thân và đáy để tạo sự tròn đều, cân đối. Sau đó, người thợ chà bóng và làm mịn mặt ngoài của sản phẩm bằng chiếc vòng sắt (nuh pathei pan).
Để kiểm tra độ đều và cân đối của sản phẩm, người thợ dùng vỏ nghêu để nạo mặt trong thân và đáy một lần nữa và xoa nước thổ hoàng lên toàn bộ mặt ngoài và mặt trong thân gốm tạo màu đỏ hồng và tươi tắn sau khi nung. Sản phẩm để trong bóng mát, dùng tấm nilon phủ kín để sản phẩm không bị khô. Trước khi nung, người thợ dùng viên đá mài chà lên thân sản phẩm để làm nhẵn lớp nước thổ hoàng bên trên thân gốm.
Chính bởi được làm hoàn toàn theo phương pháp thủ công như vậy nên những sản phẩm gốm Chăm không chiếc nào giống chiếc nào. Mỗi sản phẩm đều thể hiện phong cách, tay nghề, sự khéo léo và cả tình cảm, tâm trạng của người thợ trong quá trình chế tác sản phẩm.”
Gốm của người Chăm được nung lộ thiên. Thông thường, một lần nung tối thiểu phải có từ vài trăm sản phẩm trở lên và tối đa là từ 1500 đến 2000 sản phẩm. Việc nung gốm diễn ra quanh năm và nhiều nhà cùng nung chung một lần. Thời gian để nung chín toàn bộ sản phẩm gốm nhanh hay chậm tùy thuộc vào số lượng gốm nhiều hay ít.
Gốm được xếp theo thứ tự từ nhỏ đến lớn, từ dày đến mỏng. Nhiên liệu chính sử dụng để nung gốm từ trước tới nay là củi và rơm, củi làm chất đốt chính, rơm thấm nước để phủ kín lớp gốm trên cùng nhằm giữ nhiệt không cho hơi nóng thoát ra ngoài để gốm chín đều và nhanh hơn.
Sản phẩm gốm của người Chăm Bình Thuận khá đa dạng và phong phú, có thể chia làm hai nhóm: đồ đun nấu: trã (glah), nồi (gok glah), ấm (gok om), khương (glah đôi), dụ (buk), gàn (gin nhjih), hỏa lò (hawalo), khuôn lò bánh xèo (khung pey xèo), khuôn lò bánh căn (khung pey kăn)…; đồ đựng: lu đựng gạo (khơng brah), chum lớn (buk praung), chum nhỏ (buk ssit), chậu (khan), ống nhổ của các chức sắc (ta chôrh lănk)…
Sản phẩm gốm của người Chăm tỉnh Bình Thuận giá thành rẻ, gồm nhiều kích cỡ và chủng loại khác nhau, tiện lợi trong sử dụng, được cộng đồng người Chăm, người Việt, người Hoa, người Raglai, người Cờ ho… trên địa bàn ưa chuộng. Sản phẩm còn được tiêu thụ ở các tỉnh lân cận như Ninh Thuận, Khánh Hòa, Đồng Nai, Lâm Đồng, Tp. Hồ Chí Minh…
Người Chăm tạo ra các sản phẩm gốm trước hết để phục vụ cho đời sống sinh hoạt hằng ngày. Bởi thế, các sản phẩm của làng nghề nhiều nhất vẫn là các vật dụng thường sử dụng nhất. Tiếp đến, họ tạo ra các sản phẩm mang tính mỹ thuật và tôn giáo để trang trí các không gian, làm đẹp cuộc sống của mình. Những phẩm vật ấy từng bước trở thành hàng hóa, được mua bán khắp mọi nơi.
Trải qua thời gian, nhiều làng gốm cổ trên thế giới đã mất thế nhưng gốm Chăm Việt Nam vẫn còn tồn tại, giữ được hồn tinh túy và giữ được vẻ đẹp hoang sơ của gốm cổ cách đây hàng trăm năm. Đó là giá trị độc đáo và trường tồn của gốm Chăm, xứng đáng được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Hy vọng một lần nữa gốm Chăm lại hồi sinh và tiếp tục lan tỏa.”
Toàn bộ quy trình làm gốm của đồng bào Chăm toát lên một giá trị nghệ thuật đặc trưng. Chính nhờ vậy, dù trải qua bao thăng trầm trong tiến trình phát triển, nhưng gốm truyền thống của người Chăm vẫn tồn tại với thời gian, giữ được hồn tinh túy và giữ được vẻ đẹp hoang sơ của gốm cổ cách đây hàng trăm năm. Đó là giá trị độc đáo và trường tồn của gốm Chăm.
Thuyết minh về làng nghề nón lá xứ HuếChiếc nón lá – hình ảnh thân thuộc, duyên dáng của người phụ nữ Việt Nam không biết tự bao giờ đã âm thầm lặng lẽ đi vào thơ ca, được nhiều bạn đọc yêu thích. Nón lá từ lâu không chỉ là vật dụng chỉ để che mưa, che nắng, mà nó còn là biểu tượng truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Để có được những chiếc nón ấy, người thợ thủ công đã bỏ ra không ít công sức. Những làng nghề làm nón lá xuất hiện, được nhiều người ưa chuộng, yêu thích. Huế là nơi nổi tiếng hơn cả.
Nghề làm nón ở Huế đã tồn tại và phát triển hàng trăm năm qua với nhiều làng nghề thủ công: Dạ Lê, Phú Cam, Đốc Sơ, Triều Tây,….Mỗi năm sản xuất hàng triệu chiếc nón đáp ứng nhu cầu tiêu thụ. Những bàn tay nghệ nhân khéo léo đan từng chiếc nón, trải qua nhiều công đoạn khác nhau để hoàn thành sản phẩm.
Các công đoạn gồm: chọn khung, uốn vành, lợp lá,cắt hoa văn, chằm và đánh bóng bảo quản, cuối cùng đưa ra thị trường. Vì gồm nhiều công đoạn như thế, nghề làm nón cũng chia ra làm nhiều thợ, mỗi người một việc: Thợ làm khung, thợ chuốt vành, thợ chằm nón,…
Để định hình chiếc nón,người nghệ nhân bắt đầu làm khung. Công đoạn đầu tiên là chuốt vành, công đoạn này yêu cầu người thợ phải khéo léo, chuốt sao cho các vành đều nhau, vừa vặn, không quá to hay quá nhỏ làm mất vẻ đẹp của nón. Vành nón được làm bằng gỗ nhẹ, mảnh, các vành ghép lại tạo cho chiếc nón lá có độ khum, độ tròn và có hình dáng nhất định. Mỗi chiếc nón thường có từ 15-16 vành, đường kính khoảng 50cm, làm từ gỗ cây lồ ô, câu mung có nhiều ở Thừa Thiên – Huế. Vành nón có tuổi thọ khoảng vài chục năm tùy thuộc vào người sử dụng. Có thể xem đây là công đoạn quan trọng nhất, quyết định rõ hình dạng chiếc nón lá, 16 vành nón còn được người dân nơi đây đặt cho cái tên ấn tượng nhưng dễ nhớ: “16 vành trăng”.
Tiếp theo là công đoạn lợp lá – một công đoạn quan trọng không kém. Lá dùng để lợp nón là loại lá nón bình thường, nhưng chúng phải trải qua các giai đoạn chọn lọc tỉ mỉ và trải qua nhiều khâu: hấp, sấy, phơi sương, ủi phẳng. Người nghệ nhân phải cân nhắc, cẩn thận sao cho lá nón giữ được màu trắng xanh mới đạt tiêu chuẩn. Những chiếc lá nón được xếp đều lên vành, không bị chồng chéo nhau, tạo nên hình ảnh chiếc nón thanh mảnh, đầy nữ tính. Những người nghệ nhân sẽ đính những chiếc lá này cố định lên vành nón bằng một loại “chỉ” đặc biệt, cốt làm cho chiếc nón đẹp hơn, bền chắc hơn. Bình thường,mỗi vành nón xếp khoảng 24-25 chiếc lá đều nhau. Đến đây, chiếc nón lá đã phần nào được định hình, các bộ phận đều khá đầy đủ.
Sau công đoạn lợp lá là công đoạn đặt hoa văn. Biểu tượng giữ hai lớp nón lá thường là hình ảnh cầu Trường Tiền, núi Ngự Bình, cầu Ngói,…. được đặt hài hòa trong không gian nón, để khi soi dưới ánh nắng mặt trời, ta có thể nhìn thấy những hình ảnh tuyệt đẹp ấy. Chưa hết, những bài thơ nổi tiếng viết về Huế cũng được in cạnh bên, những bài thơ này thường được làm từ giấy bòng bảy màu, in nổi bật trên nền xanh trắng của lá nón. Nón lá với hoa văn đẹp mắt, tinh tế đã cuốn hút không biết bao nhiêu người dân hướng về quê hương Huế mộng mơ đầy yêu thương.
Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn quan trọng nhất: chằm nón. Công đoạn đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo của người nghệ nhân, chính vì lí do này mà thợ chằm nón đa số đều là nữ. Từng đường kim mũi cước mềm mại uốn cong theo vành nón, nhanh thoăn thoắt mà đều tăm tắp, đẹp biết bao nhiêu. Những đường cước mỏng viền quanh vành nón không làm mất đi vẻ đẹp vốn có mà nó còn tô điểm thêm cho nón lá, đồng thời, cũng giúp làm tăng độ bền cho nón. Nón lá sau khi hoàn tất sẽ được quét lên một lớp nhựa thông pha cồn để tăng độ bóng, không thấm nước. Cuối cùng, những sản phẩm đặc biệt này sẽ có mặt trên thị trường, ở các chợ, các cửa hàng lưu niệm.
Ở Huế đâu đâu cũng có các hàng nón lá: chợ Đông Ba, Bến Ngự,…đến chợ Sịa, Phò Trạch,…. Với vẻ ngoài hấp dẫn, chiếc nón đã trở thành một món hàng được nhiều người dân ưa chuộng, nhiều khách du lịch yêu thích. Ai đã từng đến Huế, đều tự mua cho mình chiếc nón bài thơ – một dấu ấn mang đậm nét riêng của người dân nơi đây. Hình ảnh chiếc nón lá được quảng bá khắp thị trường, các cô, các chị, ai cũng chuộng món hàng này, vừa đơn giản, vừa đậm đà bản sắc dân tộc.
Cầm chiếc nón lá trên tay, ta không chỉ yêu từng đường kim mũi chỉ, từng đường nét hoa văn, mà còn yêu thêm xứ Huế tình nghĩa đầy mộng mơ, yêu thêm những vẫn thơ mộc mạc đậm chất trữ tình:
Nón bài thơ không chỉ là loại nón đơn thuần mà thực sự đã trở thành thương hiệu đặc sắc của dân tộc. Đây là sản phẩm thủ công mĩ nghệ đầu tiên được Cục sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học Công nghệ) cấp chứng nhận bảo hộ chỉ dẫn địa lí 8/2010.
Nón lá, đặc biệt là nón bài thơ đã đi sâu vào lòng người qua các bài thơ mộc mạc, yêu thương, trở thành một nét riêng của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là nhân dân xứ Huế. Dẫu cho hiện tại, bóng dáng chiếc nón lá không còn rợp bóng các con phố như ngày xưa, nhưng hình ảnh của nó vẫn tồn tại mãi mãi trong lòng người dân. Yêu thêm chiếc nón lá, yêu thêm con người Huế, yêu thêm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam….. Và một điều chắc chắn rằng, dù thời gian có trôi đi vô tận, hình ảnh chiếc nón lá cùng chiếc áo dài truyền thống mãi tồn tại sâu sắc trong tâm khảm người dân. Chiếc nón lá mãi là biểu tượng của một dân tộc đầy yêu thương và sâu sắc…..
Thuyết minh về Làng tranh Đông HồHỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có ao tắm mát có nghề làm tranh
Đó là những câu ca gợi cảm về một làng nghề truyền thống từ lâu đã được người biết đến – Làng tranh Đông Hồ.
Đông Hồ, một cái tên làng quen thuộc xinh xắn nằm bên bờ sông Đuống thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Hà Bắc cũ (nay là tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội chừng trên 35km). Từ lâu tên làng đi vào cuộc sống tinh thần của mỗi dân Việt Nam bằng những bức tranh dân gian nổi tiếng, đậm đà sắc thái dân tộc. Làng tranh Đông Hồ xưa còn gọi là làng Mái (đôi khi dân địa phương gọi là làng Hồ), là làng nghề nổi tiếng về tranh dân gian. Làng Đông Hồ nằm trên bờ nam sông Đuống, cạnh bến đò Hồ, nay là cầu Hồ. Từ Hà Nội muốn đi Đông Hồ gần nhất là xuôi theo đường Quốc lộ số 5 (đường đi Hải Phong đến ga Phú Thụy, cách Hà Nội chừng 15km thì rẽ trái, đi chừng 18km các địa danh khá nổi tiếng của huyện Gia Lâm (Hà Nội) như phố Sủi, chợ Keo, chợ Dâu (Thuận Thành – Bắc Ninh) là đến phố Hồ – huyện lỵ Thuận Thành. Rẽ trái thêm 2km là đến làng Hồ. Cũng có thể đi hết phố Hồ, lên đê rẽ gặp điểm canh đê thứ hai sẽ có biển chỉ đường xuống làng Đông Hồ.
Tranh của làng Đông Hồ có từ thời Lê. Ở cái làng nghèo mà hào hoa như tranh Đông Hồ trước đây thường truyền nhau câu ca “Làng Mái có lịch có 26 sông tắm mát, có nghề làm tranh”. Qua nhiều thế kỷ, 17 dòng họ đã quy về làng, vốn xưa tất cả đều làm tranh. Không khí sẩm uất vào cữ tháng một, tháng chạp, các thuyền từ xứ Đông, xứ Đoài ghé bên “ăn tranh”. Người làng tranh trước ở ngoài đê vào mùa vụ làm tranh cũng phải một sương nắng tất bật khuya sớm. Thôi thì chỗ này rậm rịch tiếng chày giã điệp, chỗ dỡ ván in tranh cọ rửa lau chùi sạch sẽ. Khói đốt than lá tre ấn hiện la đà các ngọn cây. Làng Đông Hồ ruộng đất ít, sống chủ yếu bằng nghề làm. Nghề làm tranh trong làng rất được trọng vọng. Ai có hoa tay, có thú chơi cấm, kỳ, thi, họa đều được mọi người vị nể (cũng là theo cái thú ta của nhà nho xưa). Tranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, là một dòng tranh dân gian Việt Nam. Trước kia tranh được bán chủ yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh dán trên tường, hết năm lại lột bỏ, dung tranh mới. Tranh làng Đông không phải vẽ theo cảm hứng nghệ thuật mà người ta dùng ván để in. Tranh được in hoàn toàn bằng tay với các bản màu; mỗi màu dùng một bản, và nét (màu đen) in sau cùng. Nhờ cách in này, tranh được “sản xuất” với số lượng lớn và không đòi hỏi kỹ năng cầu kỳ nhiều. Tuy nhiên vì in trên ván một cách thủ công, nên tranh bị hạn chế về mặt kích thước, thông thường tờ tranh không lớn quá 50cm mỗi chiều. Để có những bản khắc đạt đến trình độ tinh xảo phải có người vẽ mẫu. Những người vẽ mẫu và bản khắc ván hỏi họ phải có lòng yêu nghệ thuật và tâm hồn nghệ sĩ, đặc biệt phải có trình độ kỹ thuật cao. Công đoạn in tranh có lẽ không khó lắm bởi lẽ ai cũng có thể phết màu lên ván rồi in. Giấy dùng in tranh là loại giấy gió mịn mặt. Trước khi in, giấy được bồi điệp làm nền, chất điệp óng ánh lấy từ vỏ con sò, con hến tạo nên chất liệu riêng biệt của tranh dân gian Đông Hồ. Sau khi in thành tranh, kể cả lúc tranh khô, người xem vẫn cảm nhận được màu sắc của tranh thật tươi tắn như lúc tranh ướt. Các hình khối, mảng nọ đặt cạnh mảng kia sự ăn ý hài hoà một cách tự nhiên. Các màu đã hoà quyện in tranh thường từ chất liệu thiên nhiên: màu đen người ta phải đốt lá tre rồi lấy than của màu xanh lấy từ vỏ và lá tràm, màu vàng lấy từ hoa hòe, màu đỏ thắm lấy thân, rễ cây vang, màu son lấy từ sỏi núi, màu trắng là điệp… Xem tranh gian ta thường bắt gặp cái thú vị ở những nét ngây ngô đơn giản nhưng họ; hợp tình. Tranh Đông Hồ còn hấp dẫn bởi vẻ rực rỡ, sắc màu tươi rói những bộ tứ binh, Thạch Sanh, những gà, lợn, mèo, chuột, ngựa… Một nhà xứ Kinh Bắc đã viết:
Có thể nói, cái đặc biệt của tranh Đông Hồ là ở chỗ đó. Tranh dân Hàng Trống, Kim Hoàng, Huế… không thể có sắc màu muôn hồng ngàn tía tranh Đông Hồ, cũng không thể có nền giấy điệp quyến rũ đó. Người sành tranh Đông Hồ chính bởi chất dân gian chứa đựng trong tờ tranh nền giấy điệp trắng ngà, lướt nhẹ lượt hoà vàng hay vàng đỏ.
Có một điều đặc biệt là người dân làng Hồ chuyên sản xuất tranh nhưng chẳng bao giờ treo trong nhà mà đem bán hoặc cho hết. Hàng năm làng Hồ cơ hội làng vào rằm tháng ba âm lịch. Trong hội làng có những nghi thức truyền thống như tế thần, thi mã, thi tranh rất vui vẻ. Làng còn có các làn điệu dân ca như:
Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân ngắm cảnh mà tan nỗi sầu
Mua tờ tranh điệp tươi màu
Mua đàn gà lợn thi nhau đẻ nhiều.
Theo thời gian làng tranh cũng trải qua biết bao nhiêu thăng trầm. Các cụ nghệ nhân trong làng kể lại: Hồi Pháp thuộc, người ở nhà Bác Cổ thỉnh thoảng sẽ đánh xe ô tô về mua tranh, thậm chí mua cả bàn khắc tranh nữa! Nhà cụ Lừ bản khắc tranh gà rất quý đưa đi đóng cửa chuồng gà, người Pháp phát hiện ra hỏi mua cụ bán liền. Nghĩ lại mà tiếc! Còn nhớ cái thuở Tây càn, dân làng Hồ chạy loạn, binh lửa chiến tranh liên miên và cái khí hậu ẩm ướt khắc nghiệt của thiên nhiên miền Bắc, ván khắc tranh bị hỏng và thất lạc khá nhiều. Bản gốc tranh Đánh ghen, Gà đại cát, lợn ăn lá dày… cũng không còn nữa. Sau ngày Hòa Bình lập lại thấy trên báo Pháp có in tranh dân gian làng Hồ, Chính phủ e phải liên hệ với Đảng Cộng sản Pháp xin cho khắc lại ván tranh để bảo tồn. Đã một thời gian tranh dân gian Đông Hồ bị lãng quên nên nghề làm tranh mai một ít nhiều. Không ít hộ bỏ làm tranh chuyển sang làm đồ vàng mã. Nhưng vài năm trở lại đây người Đông Hồ lại hoan hỉ trở lại với nghề tranh nhiều hơn bởi người dân của ta đã lại nhận ra vẻ đẹp trong sự mộc mạc giản dị của tranh Đông Hồ là không thể thiếu được trong cuộc sống thường nhật, nhất là ngày Tết.
Tranh Đông Hồ có một dạo lên đến điểm “cực thịnh”, đã từng sáng giá trong các triển lãm nghệ thuật lớn ở các nước trên thế giới với nét vẽ nhuần nhụy, tươi tắn như hồn người đất Việt. Không chỉ có người Hà Nội và dân một số tỉnh thành trong nước yêu thích tranh dân gian Tết Đông Hồ vẽ tham quan tìm hiểu và chọn mua, mà không ít du khách, những người trong lĩnh vực hội họa, mỹ thuật của nước ngoài cũng đến để nghiên cứu về nghệ thuật tranh dân gian nổi tiếng của làng Hồ. Bà con Việt kiều khi về nước cùng phải tìm mua bằng được những bức tranh làng Hồ và cô Tố Nữ dáng quê hương, để khi ở xa quê trong sương mù Luân Đôn hay cái giá lạnh của Pa-ri hoa lệ, cảm thấy ấm lòng ở chốn tha hương.
Thuyết minh về làng làm hoa giấy Thanh Tiên(Thu Bồn)
Ai đã một lần đến Huế, hẳn sẽ không bao giờ quên xứ sở mộng mơ ấy. Trên dòng Hương Giang dùng dằng không chảy, những cánh hoa giấy lặng lẽ trôi theo dòng. Những cánh hoa ấy gợi nhắc về làng nghề truyền thống của Huế – Làng nghề hoa giấy Thanh Tiên.
Hoa giấy là một phần không thể thiếu vào ngày tết, đặc biệt là ở Cố đô Huế – Kinh đô của chế độ phong kiến cuối cùng ở nước ta. Làng hoa giấy Thanh Tiên thuộc xã Phú Mậu, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế đã ra đời gần 400 năm trước dưới thời các Chúa Nguyễn. Nhưng mãi cho đến năm 1802 mới được mọi người biết đến.
Người làng kể lại rằng năm đó, sau khi vua Gia Long thống nhất đất nước, nhân lễ Thượng tuần, nhà vua ban chiếu đề nghị mỗi một trấn đem về Kinh một loài hoa quý để dâng lên vua. Lúc này trong triều đình có một vị quan, người làng Thanh Tiên, làm ở Bộ Lễ chức Tả Hữu Đồng Nghị, dâng lên nhà vua một loài hoa ngũ sắc với đầy ý nghĩa độc đáo tượng trưng đầy đủ đạo lý Tam Cương – Ngũ Thường, ông tâu rằng: “Mỗi cành bao giờ cũng có tám hoa chính. Ba cành hoa ở giữa tượng trưng cho Trung – Hiếu – Nghĩa. Trong đó luôn luôn có một chiếc hoa màu vàng hoặc màu đỏ được làm to nhất tượng trưng cho Mặt trời, đấng minh quân, còn năm bông hoa hai bên tượng trưng cho Nhân – Lễ – Nghĩa – Trí – Tín”. Nghe xong, nhà vua hiểu được ý nghĩa của loại hoa giấy Thanh Tiên, lấy làm thích thú, và sau đó ban chiếu khuyến khích người dân làng Thanh Tiên làm hoa giấy để bày biện, bán lên kinh đô và phổ biến nghề làm hoa giấy cho mọi người biết. Từ đó, nghề làm hoa giấy của làng nổi tiếng khắp đất nước.
Hoa giấy Thanh Tiên tuy đơn giản nhưng làm lại không dễ. Bởi lẽ ngoài sự khéo tay, người thợ còn phải có óc thẩm mỹ cao mới có thể cho ra đời những sản phẩm đẹp và tinh tế. Đặc biệt, người thợ phải có đức tính kiên trì, cần mẫn. Hoa giấy Tiên đặc biệt và đẹp nổi bật ở sự phong phú về màu sắc và có nhiều loại hoa khác nhau trên một cây bông, hình thức đẹp. Hoa để được lâu lại thể hiện sự trang nghiêm, một năm chỉ thay một lần vào dịp tết nên nó dễ được chấp nhận và tồn tại dài lâu. Những bông hoa giấy dưới đôi tay người nghệ nhân làng Thanh Tiên dù bằng giấy nhưng giống y như hoa thật, thậm chí còn sinh động hơn hoa thật.
Hoa giấy đã trở thành một phần của Huế, tạo nên nét đẹp mộng mơ của xứ sở này. Đồng thời, nó cũng tô điểm thêm cho cảnh sắc thiên nhiên. Hằng năm, đầu tháng Chạp, người dân làng Thanh Tiên đã bận rộn với việc chăm chút từng nhành hoa để kịp đón xuân về, tết đến, tô điểm thêm nét đẹp của tín ngưỡng dân gian Huế. Trên bàn thờ của người Huế luôn có một cây hoa giấy với nhiều màu sắc. Người dân xứ Huế đều ngưỡng mộ trước sự tài hoa, khéo léo và nghệ thuật làm hoa sen giấy của làng Hoa giấy Thanh Tiên. Hoa sen giấy Thanh Tiên còn là món quà mà nhiều du khách quốc tế yêu thích, mang về tận quốc gia của mình như: châu Âu, châu Mỹ, châu Úc.
Hoa sen giấy Thanh Tiên còn được cách tân làm biểu tượng trong các lễ hội lớn như Festival Huế, lễ hội áo dài, các chương trình giao lưu văn hóa nghệ thuật và được trưng bày ở Đại Nội – Huế, ở Nhà lưu niệm Nguyễn Chí Diểu (Thanh Tiên, Phú Mậu, Phú Vang, Huế).
Trải qua bao biến động của thời gian, dù nhiều loại hoa nhựa ra đời nhưng làng nghề hoa giấy Thanh Tiên vẫn luôn giữ được vị trí của mình. Không chỉ là một làng nghề truyền thống lâu đời, làng nghề hoa giấy Thanh Tiên còn là niềm tự hào của người Huế, lưu giữ nét đẹp văn hóa tinh thần mang đậm màu sắc Huế thương.
Thuyết minh về làng tơ Cổ ChấtMỗi khi câu thơ ấy vang lên, lòng tôi lại xao xuyến nhớ về màu tơ vàng óng làng Cổ Chất. Theo dòng chảy vô tình của thời gian, bao năm qua đi, ngôi làng ấy vẫn giữ được truyền thống cổ xưa nhất, tạo nên một làng nghề truyền thống nổi tiếng ở đất Thành Nam. Người ta gọi là Làng tơ Cổ Chất.
Làng Cổ Chất lặng lẽ đặt mình ở một vùng của xã Phương Đình, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Từ trung tâm thành phố Nam Định chạy thẳng theo quốc lộ 21 hoặc xuôi dòng sông Hồng yên ả khoảng 20km về phía Đông Nam, bạn sẽ chợt thấy mình như lạc vào một không gian đậm chất xưa của đồng bằng Bắc Bộ. Đó là làng tơ Cổ Chất. Làng nghề truyền thống khẽ nép mình bên dòng sông Ninh hiền hòa, thơ mộng.
Từ rất lâu trước kia, ngôi làng này đã nổi tiếng với nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa. Không có ai nhớ rõ nghề này đã theo làng từ lúc nào. Chỉ nghe các vị bô lão kể lại rằng: vào đầu thế kỷ XX, Pháp xây một nhà máy ươm tơ ngay đầu làng Cổ Chất để khai thác sức lao động và lợi thế của vùng dâu tằm sông Ninh.
Hồi tưởng lại quá khứ, những người có tuổi trong làng vẫn nhớ rõ khung cảnh tấp nập khi xưa của làng. Thương nhân ở khắp mọi nơi tìm về làng thu mua tơ lụa, đem bán ở bến Đò Chè – khu cảng sầm uất của Nam Định những năm trước 1945.
Cho tới hôm nay, làng có khoảng năm trăm hộ theo nghề ươm tơ. Tơ làng Cổ Chất có chất lượng rất tốt, những sợi tơ thanh mảnh, mềm mại, màu sắc tươi sáng. Người trong làng ươm cả tơ vàng và tơ trắng. Kén tằm được chọn lựa từ các vùng lân cận xa xôi hơn như Thanh Hóa, Hà Nam, Thái Bình. Ấn tượng đầu tiên khi mới bước chân đến ngôi làng cổ này là đâu đâu cũng thấy những bó tơ vàng, tơ trắng óng ả phơi trên những thanh sào tre. Thấp thoáng đâu đó là hình ảnh những người phụ nữ đang vắt những bó tơ vừa dệt. Tơ vàng, ánh mặt trời vàng hòa quyện với nhau tạo nên một bức tranh sặc sỡ sắc màu. Khoa học công nghệ phát triển, sản phẩm của làng bây giờ được sản xuất bằng cả phương pháp thủ công và máy móc, cho ra nhiều sản phẩm tơ đa dạng, chất lượng hơn.
Đi sâu vào những xưởng kéo tơ, ta lại càng ngỡ ngàng với những làn khói bốc nghi ngút từ nồi luộc kén. Ẩn phía sau những làn khói ấy là bóng dáng các bà, các chị đang miệt mài cho những chiếc kén tằm vào nồi, đôi tay khéo léo khuấy liên tục. Một lúc sau, kén thi nhau nhảy lên bàn kéo sợi, những sợi tơ chui qua lỗ nhỏ rồi cuốn mình vào guồng quay đang quay tít. Sau đó, những bó tơ vàng, tơ trắng được ra đời.
Về thăm làng Cổ Chất, bạn không chỉ được tận mắt chứng kiến các công đoạn ươm tơ dệt lụa mà còn có dịp chiêm ngưỡng một làng quê mang đậm nét truyền thống xứ Bắc. Dạo quanh làng, bạn sẽ nhìn thấy Vạn Cổ Hương và chùa Phổ Quang. Đó là quần thể kiến trúc được Bộ văn hóa cấp bằng di tích lịch sử – văn hóa đền chùa Cổ Chất. Đặc biệt, bạn còn được nghe kể về những câu chuyện xa xưa gắn liền với những công trình này.
Trong làng có Chùa thờ Phật, đền thờ bốn vị Thánh tổ có công khai phá và dựng nên làng Cổ Chất xưa kia. Để nhớ công lao của những vị thành hoàng, tri ân công đức của các bậc tiền nhân, mùng 6 tháng 3 âm lịch hằng năm, dân làng lại đón khách thập phương tới dâng hương. Cũng trong dịp đó, người dân nơi đây tổ chức các trò chơi dân gian như khởi đầu cho một mùa tơ vàng, một mùa lúa bội thu và cầu may cho một cuộc sống an khang thịnh vượng.
Làng tơ Cổ Chất từ lâu đã trở thành một làng nghề truyền thống của Nam Định. Nơi đây là quê nhà của những loại tơ tằm đẹp có tiếng đất thành Nam. Những bó tơ vừa bền vừa đẹp, qua đôi tay những nghệ nhân đi đến mọi miền đất nước, dệt lên những bộ quần áo duyên dáng cho con người. Tơ Cổ Chất là nguồn kinh tế của cả một làng nghề, là lịch sử văn hóa soi chiếu lâu đời. Về làng cổ này, ta được tiếp xúc với những con người chân chất, hiền lành, gắn bó cả đời với nghiệp ươm tơ, dệt lụa và ngắm nhìn những khung cảnh tuyệt đẹp.
Qua bao thăng trầm của lịch sử, tới tận hôm nay, Cổ Chất trở thành một làng nghề truyền thống nổi tiếng khắp mọi vùng miền của Tổ quốc. Dù cho bao lâu đi nữa, làng nghề truyền thống ấy vẫn sống mãi trong tim những thế hệ hôm nay và cả mai sau.
Thuyết minh về Bánh cáy làng NguyễnĐến với mỗi vùng miền khác nhau của đất nước, ta lại được thưởng thức những cái riêng mà chỉ có vùng đất ấy mang lại. Ai đã qua miền Tây Nam Bộ, không thể quên những vườn cây trĩu trái, những món cá sông nước đặc sản của vùng miền. Ai đã một lần tới với Hà Nội không thể không thưởng thức món bún chả nổi tiếng khắp nơi. Còn đến với Thái Bình – một tỉnh đồng bằng nhỏ ở miền nông thôn Bắc Bộ, chúng ta không thể bỏ qua món bánh cáy làng Nguyễn đã sớm vang danh khắp cả nước.
Khi nhắc tới Thái Bình, hẳn ai cũng sẽ nhớ ngay tới chùa Keo, một trong những ngôi chùa với lối kiến trúc đẹp và cổ kính bậc nhất Việt Nam. Nhưng Thái Bình không chỉ có vậy, mà nơi đây còn có một món ăn – món đặc sản – nét văn hóa ẩm thực đặc sắc nhất mà người Thái Bình vô cùng tự hào, đó là món bánh cáy làng Nguyễn.
Bánh cáy đã xuất hiện từ lâu đời, khoảng hai trăm tới ba trăm năm trước, từ thời đất nước ta còn trong chế độ phong kiến. Loại bánh này đã trở thành một món ăn truyền thống và trở thành đặc sản vùng miền để dâng lên vua chúa ngày xưa. Chính sự lan tỏa rộng rãi của món bánh này đã giúp hình thành nên một làng nghề làm bánh cáy nổi tiếng ở Thái Bình, đó là làng Nguyễn (thuộc Đông Hưng, Thái Bình). Và cũng chỉ ở tại ngôi làng này, người ta mới có thể được thưởng thức hương vị nguyên chất nhất của chiếc bánh cáy từ thời xưa.
Đối với nhiều người, món bánh cáy có thể khá lạ lẫm. Món bánh cáy được làm từ những nguyên liệu chính là gạo nếp, nhưng lại tạo nên một nét hương vị riêng không nơi nào có thể làm ra được. Để làm ra một chiếc bánh cáy thơm ngon, người ta cần dùng rất nhiều nguyên liệu, không thể thiếu trong số các nguyên liệu chính là gạo nếp, mỡ lợn, lạc, gấc, vừng, dừa… và điều quan trọng không thể thiếu đó là phải chọn lựa nguyên liệu thật cẩn thận. Vậy nên, ngay từ trước khi chuẩn bị làm bánh khoảng nửa tháng, người thợ làm bánh đã phải chọn ra những lạng mỡ lợn tươi ngon nhất để đem muối. Mỡ lợn được cho là ngon phải có độ tươi, dẻo, đàn hồi và có độ trắng nhất định, được lấy từ con lợn ngon nhất.Sau đó, mỡ lợn được đem ướp muối và đường trong vòng nửa tháng để tạo nên thành phần ngon nhất của chiếc bánh cáy. Đến khi mỡ lợn đạt được độ chín nhất định, người ta mới lấy ra mà bắt đầu công đoạn làm một chiếc bánh cáy. Ngoài mỡ lợn, việc chọn các nguyên liệu khác cũng là một công đoạn cực kì quan trọng. Gạo nếp được chọn để làm bánh phải là loại gạo nếp cái hoa vàng – một loại nếp đặc sản của vùng đồng bằng, được xay xát và vo cẩn thận. Người ta sẽ vo gạo nếp từ đêm hôm trước,ngâm trong nước lạnh qua một đêm để gạo có được độ mềm và nở. Sau đó, gạo nếp được vớt lên để ráo nước, một phần được cho lên chảo bung lên thành các hạt bỏng gạo. Trong bước này, người làm bánh sẽ cẩn thận loại bỏ hết các lớp vỏ trấu còn sót lại trên những hạt gạo, để có được những hạt bỏng gạo trắng và sạch sẽ nhất. Phần còn lại của gạo nếp sẽ được nấu thành xôi, gồm xôi gấc và xôi nghệ. Trong lúc nấu xôi, người nghệ nhân làm bánh phải canh giờ để xôi vừa chín tới sẽ được mang ra ngay, sau đó được cho vào cối đá giã đều tay cho thật nhuyễn và mịn. Xôi sau khi được giã sẽ được đem đi cán mỏng thành từng miếng nhỏ rồi đem sấy cho thật khô. Trong thời gian chờ xôi được sấy, người thợ bánh sẽ bắt tay ngay vào việc chuẩn bị nốt những nguyên liệu còn lại của chiếc bánh cáy. Đó là những thành phần phụ tạo nên mùi thơm cũng như nét đặc trưng của chiếc bánh. Không thể thiếu trong chiếc bánh cáy mà mùi thoang thoảng của vỏ quýt thơm, mùi gừng đậm đà nồng nồng, vị ngọt mát của đường mía, cái giòn giòn của cà rốt. Bởi vì từ gừng, người thợ bánh đã khéo léo giã nát, rồi pha thành một thứ nước gừng, cùng với đó là nước đường pha đặc, được cho lên bếp đảo đều cùng với cà rốt và vỏ quýt. Chắc hẳn ai đã từng được nếm thử bánh cáy sẽ không thể quên được hương vị của những nguyên liệu độc đáo này.
Advertisement
Tiếp theo, khi đã được sấy khô, những lát xôi lại được đem đi nghiền nát thành bột mịn. Còn mỡ lợn được đem ra từ thùng muối, thái thành miếng kiểu hạt lựu rồi cho lên bếp xào cùng đường cho đến khi mỡ chuyển màu và vàng giòn thì người ta sẽ trút hết bột xôi vào đó, khuấy thật đều tay để tạo nên mùi thơm. Tiếp đó, tất cả các nguyên liệu sẽ được trộn đều cùng. Trong bước này, người thợ bánh phải là người có đôi tay thật dẻo, thật khéo léo thì mới có thể tạo nên được một chiếc bánh với màu sắc và độ sánh thật đẹp được.
Cuối cùng trong các công đoạn là rắc vừng và lạc. Lạc và vừng sau khi được người thợ làm bánh khéo léo rang vàng lên, tỏa ra một mùi thơm bùi béo đặc trưng thì được đem rải thật đều vào mặt đáy của khuôn bánh. Người thợ làm bánh cứ vậy mà trút những nguyên liệu đã được làm tỉ mỉ ở trên vào khuôn rồi dùng tay ấn bánh xuống cho thật chặt. Để chờ cho tới khi bánh trong khuôn nguội và kết dính lại với nhau, đem ra ngoài, ta đã có được món bánh cáy truyền thống – đặc sản của người dân Thái Bình.
Ngày xưa, trong lớp nguyên liệu còn có cả trứng của loài cáy biển nữa. Vậy nên, bánh mới có cái tên rất đặc biệt – bánh cáy. Sau này, nguyên liệu này dần không còn phổ biến và không còn được sử dụng nữa, nhưng cái tên bánh cáy đã trở thành một món bánh ngon không thể thiếu của người dân quê hương Năm Tấn. Bánh cáy của Thái Bình chỉ có một loại duy nhất làm nên thương hiệu cho đặc sản của xứ này. Đó là bánh cáy được làm ra từ làng Nguyễn. Loại bánh này đã được phổ biến rộng rãi khắp cả nước, tạo nên một thương hiệu riêng mang tên bánh cáy làng Nguyễn nổi tiếng khắp cả nước ta.
Kỳ công là vậy để tạo nên một chiếc bánh cáy, nhưng để thưởng thức cho đúng cái vị bánh thì không phải ai cũng rành. Để có thể thưởng thức được trọn vẹn hương vị và độ ngon của bánh, người ta phải cắt thành từng miếng nhỏ, vừa ăn vừa nhâm nhi một chén trà nóng thì quả thực mới nếm hết được cái hồn của bánh cáy Thái Bình. Bánh cáy xưa kia chỉ được làm mỗi dịp tết đến, đón xuân về, người ta mới được dịp ngồi lại cùng nhau thưởng thức nó. Nhưng ngày nay, khi cuộc sống càng ngày càng đủ đầy, người ta lúc nào cũng có thể thưởng thức được món bánh ngon này. Và không thể thiếu trong túi quà của những ai đã từng tới Thái Bình là món bánh cáy truyền thống này để làm quà cho mọi người. Bánh cáy cũng là món bánh được những người con Thái Bình xa xứ thương nhớ gửi làm quà cho các bạn từ phương xa.
Bánh cáy từ lâu đã trở thành một phần văn hóa tinh thần của người dân Thái Bình. Đi tới đâu, gặp bất cứ ai, khi hỏi về những món ăn ngon của quê hương mình, mỗi người con Thái Bình sẽ tự hào nói tên món bánh cáy. Không chỉ trong đời sống hàng ngày của người dân, bánh cáy đã trở thành món đặc sản không thể thiếu của những ai đã từng một lần tới thăm mảnh đất này.Bởi vì trong đó chứa đựng tất cả những tinh hoa, những phong tục, và nét văn hóa ẩm thực riêng, không nơi nào có của vùng đất đồng bằng này.
Giờ đây, khi tới với Thái Bình, các bạn sẽ không chỉ thăm quan những cảnh đẹp, những thắng cảnh tuyệt sắc mà chắc chắn sẽ không thể nào quên thưởng thức món bánh cáy truyền thống ở nơi đây. Trải qua bao thăng trầm, bao biến cố, món bánh này sẽ mãi là một món quà đặc biệt, một nét văn hóa ẩm thực, một đặc sản không thể nào quên của quê hương Thái Bình.
Thuyết minh về làng gốm Bát TràngMảnh đất thủ đô nghìn năm văn hiến – Hà Nội không chỉ có những danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Mà còn có rất nhiều làng nghề truyền thống. Một trong số đó là gốm Bát Tràng.
Làng gốm Bát Tràng bao gồm hai thôn Bát Tràng và Giang Cao, thuộc xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm. Làng gốm Bát Tràng cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng chừng 30km về phía Đông Nam. Đầu tiên về tên gọi của làng gốm Bát Tràng có thể hiểu theo nghĩa Hán Việt, “bát” là từ dùng để chỉ đồ gốm, chén bát nói chung còn “tràng” chính là chỗ đất dành riêng cho một lĩnh vực, một chuyên môn nào đó.
Làng gốm Bát Tràng là một làng nghề truyền thống nổi tiếng về sản xuất gốm. Bởi vậy nên quá trình sản xuất gốm ở làng gốm Bát Tràng luôn có những điểm độc đáo, đặc sắc riêng. Điều quan trọng đầu tiên để tạo nên một sản phẩm gốm chất lượng đó chính là việc lựa chọn đất. Nguồn nguyên liệu chủ yếu để làm gốm đó chính là đất sét trắng. Ngày nay, đất sét trắng để làm gốm Bát Tràng có thể được lấy từ trong làng hoặc từ các vùng khác như Hồ Lao, Trúc Thôn… Sau khi đã lựa chọn được đất sét trắng làm nguyên liệu, các nghệ nhân làm gốm sẽ bắt tay vào việc xử lý, pha chế đất bởi lẽ trong đất sét có lẫn tạp chất và đồng thời việc xử lý đất sẽ tạo ra những nguyên liệu phù hợp đối với từng loại sản phẩm. Ở làng gốm Bát Tràng vẫn tuân theo quy luật xử lý đất truyền thống là thông qua việc ngâm nước ở hệ thống bốn bể nước với các độ cao khác nhau. Đất sét trắng sau khi được xử lý sẽ được đem đi tạo dáng và ở nơi đây người ta tạo dáng bằng tay trên bàn xoay – đây là phương pháp tạo dáng truyền thống từ ngàn đời nay. Bằng đôi bàn tay khéo léo, sử tỉ mỉ, cẩn trọng, những nghệ nhân làng gốm đã tạo ra nhiều loại đồ gốm với những hình dáng, mẫu mã và chủng loại khác nhau. Tạo dáng xong, các sản phẩm sẽ được đem đi phơi sấy và sửa lại theo mong muốn của người làm.
Ở làng gốm Bát Tràng, việc phơi sấy thường được sử dụng là hong khô trên giá và để ở nơi thoáng mát. Nhưng ngày nay, một số người lựa chọn sấy sản phẩm ở trong các lò sấy và tăng nhiệt độ từ từ. Sau khi đã tạo ra được sản phẩm gốm như mong muốn, những nghệ nhân làm gốm sẽ tiến hành trang trí, quét men lên sản phẩm để phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người sử dụng. Cuối cùng, đó chính là nung gốm trong các lò. Và như vậy, trải qua nhiều công đoạn khác nhau, những nghệ nhân làng gốm Bát Tràng đã có thể tạo ra được những sản phẩm gốm độc đáo.
Làng gốm Bát Tràng là một trong số những làng nghề nổi tiếng của nước ta từ ngàn đời nay. Những sản phẩm của làng gốm Bát Tràng luôn nhận được sự ưa chuộng, yêu mến của mọi người không chỉ bởi mẫu mã đa dạng mà còn bởi sự tuyệt vời về chất lượng. Hiện nay, đồ gốm Bát Tràng không chỉ có mặt ở khắp nơi trên đất nước ta mà còn được xuất khẩu ra nhiều thị trường lớn trên thế giới như châu u, Mỹ, Hàn Quốc… Thêm vào đó, nơi đây còn là một địa điểm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước về tham quan và tự mình nhào nặn nên những sản phẩm đồ gốm tuyệt diệu.
Làng gốm Bát Tràng – một làng nghề nổi tiếng ở Việt Nam. Nơi đây đã góp phần lưu giữ những nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Chùa Yên Tử (Dàn Ý + 4 Mẫu) Thuyết Minh Danh Lam Thắng Cảnh Lớp 8
Chùa Yên Tử nằm ở địa phận tỉnh Quảng Ninh, là một trong những ngôi chùa nổi tiếng của nước ta, gắn liền với tên tuổi của Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết để có thêm nhiều vốn từ, ngày càng học tốt môn Văn 8:
Dàn ý thuyết minh về chùa Yên Tử Dàn ý 11. Mở bài: Giới thiệu về chùa Yên Tử
2. Thân bài:
– Giới thiệu về vị trí địa lí.
Yên Tử cách thị xã Uông Bí. Tỉnh Quảng Ninh 14 km về phía tây bắc. Núi Cánh Gà phía nam, dãy núi Bảo Đài ở phía bắc như những thành quách cổ xưa mở rộng cánh cửa dẫn khách hành hương bước vào thế giới Yên Tử. Suối Giải Oan nước trong veo uốn khúc, sỏi trắng và đá cuội rải đều. Đến xuân, rừng Yên Tử nảy lộc đơm hoa, hoa dành và hoa bướm vàng tươi, hoa hải đường và hoa thủy tiên nở bung những cánh mỏng phớt tím.
– Thuyết minh về từng bộ phận của chùa Yên Tử
Cảnh vật xung quanh cây cối,…
Bên trong chùa
Nơi sinh hoạt chính
– Vị trí của chùa đối với Việt Nam và trên thế giới
3. Kết bài:
Khái quát tầm quan trọng của chùa đưa ra dự đoán hướng phát triển trong tương lai
Dàn ý 2I. Mở bài:
– Giới thiệu khái quát về chùa Yên Tử
II. Thân bài:
– Khái quát về vị trí địa lý của chùa Yên Tử: Nằm trên núi Yên Tử thuộc thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
– Lịch sử hình thành chùa Yên Tử:
Lịch sử gắn với vị vua Trần Nhân Tông – người sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Hệ thống các di tích lịch sử văn hóa gắn với sự ra đời của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
– Khung cảnh xung quanh chùa Yên Tử:
Đỉnh núi cao 1068m so với mực nước biển thường có mây bao phủ trắng xóa.
Hệ thống động thực phật phong phú, đa dạng.
Đường rừng núi với hàng ngàn bậc đá.
Xung quanh có các di tích và thắng cảnh nổi tiếng như Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử.
Khu di tích lịch sử nhà Trần.
– Vẻ đẹp cảnh quan chùa Yên Tử:
Suối Giải Oan và chùa Giải Oan.
Chùa Hoa Yên.
Đoạn đường 6000m đi lên đỉnh Yên Tử: Tháp Tổ, chùa Một Mái, chùa Bảo Sái, am Ngọa Vân, Thác Vàng, Thác Bạc,…
Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử.
Chùa Đồng.
– Giá trị tâm linh, du lịch của danh thắng tâm linh chùa Yên Tử.
Trung tâm Phật giáo trong lịch sử Việt Nam.
Lễ hội Yên Tử.
III. Kết bài:
– Cảm nhận về chùa Yên Tử
Thuyết minh chùa Yên TửQuảng Ninh được mệnh danh là “Đất tổ Phật giáo Việt Nam” và gắn liền với Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Nhắc đến Quảng Ninh ta không thể không nhắc đến di tích chùa Yên Tử nổi tiếng. Chùa Yên Tử bao gồm một hệ thống các chùa, am, với những giá trị lịch sử lâu đời gắn liền với thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Nơi đây được ví như chốn bồng lai tiên cảnh, là một trong những địa điểm du lịch tâm linh hấp dẫn du khách thập phương trong và ngoài nước.
Núi Yên Tử (Uông Bí – Quảng Ninh) là một ngọn núi cao và đẹp, nổi tiếng được mệnh danh là “đệ nhất linh sơn” hay “Phật sơn” của nước ta, non thiêng Yên Tử nổi tiếng nhất là quần thể chùa Yên Tử với văn hóa tâm linh và các di tích lịch sử về Phật giáo, Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Dòng chảy lịch sử Phật giáo tại Yên Tử bắt nguồn từ khi vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho vua Trần Anh Tông, với lòng thành hướng về chốn non cao tầm đạo, năm 1299 vua Trần Nhân Tông đến mảnh đất Yên Tử, bắt đầu cuộc sống tu hành theo 12 điều khổ hạnh, cho xây dựng hệ thống các chùa chiền, am, tháp, mỗi chùa lại có những sự tích riêng. Danh thắng Yên Tử với đỉnh núi cao 1068m so với mực nước biển nên đỉnh núi lúc nào cũng có mây mù bao phủ, lại thêm phong cảnh thiên nhiên hữu tình, đa dạng và phong phú các loài động, thực vật, tiêu biểu có các cây đại thụ như cây tùng cổ 700 tuổi, cây đại cổ, các động vật tiêu biểu như cu li lớn, khỉ mặt đỏ, sơn dương, rồng đất,…Xung quanh quần thể chùa Yên Tử là các di tích và thắng cảnh nổi tiếng như Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử, Khu di tích lịch sử nhà Trần. Chúng ta bắt đầu hành trình lên đỉnh Yên Tử tại dòng suối Giải Oan và ngôi chùa Giải Oan, chính Phật Hoàng đã đặt tên Giải Oan nhằm giúp siêu độ cho những cung nữ theo hầu vua đã nhảy xuống suối tự vẫn khi vua không cho theo hầu hạ. Chùa Giải Oan vốn linh thiêng có tiếng, lưng tựa vách núi, mặt hướng ra dòng suối róc rách đêm ngày, đứng dưới chùa Giải Oan nhìn lên sẽ thấy ngọn núi Yên Tử cao vời vợi. Chùa Hoa Yên được coi là ngôi chùa chính của hệ thống chùa Yên Tử, chùa ở lưng chừng núi, thế rất vững chãi, cảnh trí nơi đây vô cùng tuyệt đẹp với trăm hoa đua nở, những đám mây dường như cũng kết thành những đóa hoa giăng trước cửa chùa. Con đường hành hương lên đỉnh Yên Tử luôn có những bậc đá và hàng cây xanh hai bên đường, hàng Tùng cổ thụ 700 tuổi với rễ bám sâu vào vách núi, tán rộng khổng lồ che rợm đường cho người phật tử. Vườn tháp trung tâm của chùa Yên Tử là khu Tháp Tổ gồm 64 ngọn tháp và mộ, ngoài ra còn có các am như am Ngự Dược, am Thung là nơi nghiên cứu, bào chế và sản xuất thuốc từ các loại thảo dược trên núi Yên Tử. Đặc biệt nhất là chùa Một Mái nằm ẩn sâu trong hang núi, chỉ phô ra bên ngoài nửa mái, cảnh chùa tĩnh lặng, thanh thoát dường như là một thế giới khác cách xa nơi trần tục. Ngoài các di tích chùa, am, tháp, nơi đây còn có Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử – thiền viện lớn nhất Việt Nam với kiến trúc uy nghiêm, khang trang và bề thế. Ngôi chùa cao nhất của Yên Tử là chùa Đồng, Phật Hoàng đã chọn nơi đây để tĩnh thiền, toàn bộ kết cấu đều được làm bằng đồng kể cả đồ thờ tự nhằm thích ứng được với khí hậu ẩm ướt quanh năm. Nếu bạn không muốn phải đi bộ đến 6 cây số đường rừng núi gập ghềnh đá để lên đỉnh Yên Tử thì ngày nay bạn có thể đi cáp treo, hệ thống cáp treo hiện đại gồm hai chặng, từ chân núi lên đến chùa Hoa Yên và từ chùa Hoa Yên lên đến chùa Đồng, khi đi bằng cáp treo du khách cũng sẽ được ngắm toàn cảnh vùng núi Yên Tử. Với ý nghĩa là “Đất tổ Phật giáo Việt Nam”, chùa Yên Tử là một trong những thắng tích Phật giáo được lựa chọn để các đại biểu tham dự lễ Phật đản trên khắp thế giới đến tham quan, chiêm bái. Lễ hội Yên Tử được tổ chức hàng năm từ ngày mùng 10 tháng Giêng và kéo dài đến hết tháng 3, mỗi dịp lễ hội thu hút hàng triệu du khách thập phương đến tham quan, lễ bái và cầu an.
Chùa Yên Tử hay quần thể di tích Phật giáo Yên Tử nói chung là một niềm tự hào đối với mỗi người dân Việt Nam, đó là minh chứng cho nét đẹp văn hóa tâm linh của dân tộc ta, về với Yên Tử như được trở về cội nguồn, về miền đất tổ của nền Phật giáo nước nhà.
Thuyết minh về chùa Yên Tử – Mẫu 1Vốn là là một thắng cảnh thiên nhiên, ngọn Yên Tử còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử với mệnh danh “đất tổ Phật giáo Việt Nam”. Núi Yên Tử là ngọn núi thuộc dãy cánh cung Đông Triều thuộc thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Trên đỉnh núi thường có mây bao phủ nên còn có tên gọi là Bạch Vân sơn, núi rừng Yên Tử nổi tiếng là nơi có khung cảnh ngoạn mục và được mệnh danh là một trong những cảnh quan đẹp nhất đất Việt. Trên đỉnh núi thiêng Yên Tử còn có một khu di tích lịch sử với những ngôi chùa và tháp cổ cùng rừng cây cổ thụ lâu đời. Đỉnh Yên Tử cũng trở thành trung tâm của Phật giáo từ khi vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng, tu hành và lập ra giáo phái Phật giáo có tên là Thiền Trúc Lâm Yên Tử.
700 năm trước, sau chiến thắng quân xâm lược Nguyên Mông, vị vua anh hùng Trần Nhân Tông đã nhường ngôi cho con để lên Yên Tử tu hành, nghiên cứu giáo lý nhà Phật, gắn kết với triết lý nhân sinh dân tộc để hình thành và sáng lập nên Thiền phái Trúc Lâm với tư tưởng “nhập thế”, “tu tại tâm” mà ở đó, đạo không tách biệt đời. Ðạo phải thể nghiệm ngay trong cuộc sống. Có thể nói, dòng thiền là sự hòa hợp tuyệt vời giữa tinh thần dân tộc và tôn giáo, giữa tư tưởng và đạo đức, giữa đạo và đời. Ngày nay, những tư tưởng này đã được truyền bá rộng với nhiều trung tâm Thiền phái Trúc Lâm trong nước và ngoài nước, không chỉ thu hút người Việt mà còn được nhiều người nước ngoài quan tâm theo học và tu hành.
Hành trình thăm viếng Yên Tử bắt đầu từ suối Giải Oan với một cây cầu đá xanh nối hai bờ suối. Cầu dài 10m, có kiến trúc hài hòa với khung cảnh thiên nhiên chung quanh, không cầu kỳ bay lượn nhưng toát lên vẻ đẹp cổ kính, vững chãi. Tiếp đó tới chùa Hoa Yên với hàng cây tùng cổ tương truyền được trồng từ khi vua Trần Nhân Tông lên tu hành trên Yên Tử. Chùa Hoa Yên nằm ở độ cao 543m, được xây mới hoàn toàn thay cho chùa cũ đã có từ 30 năm trước. Ngôi chùa mới mang phong cách kiến trúc thời Trần – Lê, kiểu “nội công ngoại quốc”, chung quanh có nhà ngang, dãy dọc phục vụ việc hành lễ và nơi ở của sư trụ trì và tăng ni. Trước chùa có tam quan, bảo tháp, trung tâm là tam bảo, hành lang, lầu chuông và trống, cuối cùng là nhà tổ, lợp ngói mũi hài, ngói bò hình hoa chanh xếp bờ nóc.Phía trên độ cao 700m là chùa Vân Tiêu lẩn khuất trong mây bên triền núi.
Đường đi lên chùa đồng Yên Tử
Chùa Đồng là nơi dừng chân cao nhất của du khách. Chùa được khởi dựng vào thời Hậu Lê với tên gọi “Thiên Trúc Tự”. Chùa Đồng được đúc hoàn toàn bằng đồng nguyên chất cao 3m, rộng 12m2 và nặng 60 tấn. Từ năm 2010, tại khu vực Chùa Đồng đã khởi công và khánh thành bức tượng đồng Phật Hoàng Trần Nhân Tông ngồi trên bệ được làm bằng bê tông cốt thép ốp đá điêu khắc. Bức tượng cao hơn 3m, đài sen hơn 2m, thân tượng đồng cao 9,9m, được dựng trên khu đất rộng 2 200m2 gồm khu vực đặt tượng, sân hành lễ, không gian tượng An Kỳ Sinh, sân tập kết và các công trình khác.
Dọc đường còn có một số điểm tham quan như: Tháp Tổ, chùa Một Mái, chùa Bảo Sái, tượng đá Yên Kỳ Sinh, am Ngọa Vân, bàn cờ tiên, các khu du lịch sinh thái Thác Vàng, Thác Bạc. Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử xây trên nền dấu tích của chùa Lân mà đức Ðiếu Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông từng thuyết giảng chúng sinh. Ðây là công trình thiền viện lớn nhất nước có cổng Tam quan, tòa chính điện, nhà thờ Tam Tổ, lầu trống, lầu chuông, nhà trưng bày, nhà khách, phòng thiền với kiến trúc đẹp và hoành tráng, uy nghi, điểm tô chốn non thiêng Yên Tử thêm phần khang trang, bề thế, góp phần bảo tồn, nghiên cứu các thư tịch cổ, ấn phẩm văn hóa Phật giáo Việt Nam, tạo điều kiện cho tăng ni, phật tử Trúc Lâm trong cả nước đến giảng đạo và tu thiền.
Đường lên đến Chùa Đồng khá cheo leo hiểm trở và khó đi, ngày xưa, du khách phải mất 5-6 tiếng đồng hồ để lên được tới nơi. Những năm gần đây, chùa Yên Tử đã được các cấp, ngành quan tâm, Ban quản lý Khu di tích đã đầu tư xây dựng hệ thống cáp treo với 2 trạm. Trạm đầu dài trên 1,2km lên tới độ cao 450m gần Chùa Hoa Yên và trạm thứ hai từ Chùa Hoa Yên lên đến gần Chùa Đồng. Với hệ thống cáp treo này, du khách có thể ngắm nhìn toàn bộ cảnh rừng núi Yên Tử từ trên cao với những cây tùng, cây đại hàng trăm năm tuổi xen kẽ trong rừng cây xanh tươi và hít thở không khí trong lành.
Còn đường bộ thì cũng đã được xây dựng bằng những bậc đá có lan can và một hệ thống những cột đèn từ dưới chân núi lên tới chùa Đồng để phục vụ du khách trong và ngoài nước về với Yên Tử, lễ Phật và tham quan.
Đầu Xuân đi lễ chùa, được ngắm nhìn phong cảnh núi non Yên Tử hùng vĩ, được tận mắt chiêm ngưỡng những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc cổ từ thời đại nhà Trần với những di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh vô giá, thật không còn niềm vui nào bằng.
Thuyết minh về chùa Yên Tử – Mẫu 2Quảng Ninh được mệnh danh là “Đất tổ Phật giáo Việt Nam” và gắn liền với Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Nhắc đến Quảng Ninh ta không thể không nhắc đến di tích chùa Yên Tử nổi tiếng. Chùa Yên Tử bao gồm một hệ thống các chùa, am, với những giá trị lịch sử lâu đời gắn liền với thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Nơi đây được ví như chốn bồng lai tiên cảnh, là một trong những địa điểm du lịch tâm linh hấp dẫn du khách thập phương trong và ngoài nước.
Núi Yên Tử (Uông Bí – Quảng Ninh) là một ngọn núi cao và đẹp, nổi tiếng được mệnh danh là “đệ nhất linh sơn” hay “Phật sơn” của nước ta, non thiêng Yên Tử nổi tiếng nhất là quần thể chùa Yên Tử với văn hóa tâm linh và các di tích lịch sử về Phật giáo, Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Dòng chảy lịch sử Phật giáo tại Yên Tử bắt nguồn từ khi vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho vua Trần Anh Tông, với lòng thành hướng về chốn non cao tầm đạo, năm 1299 vua Trần Nhân Tông đến mảnh đất Yên Tử, bắt đầu cuộc sống tu hành theo 12 điều khổ hạnh, cho xây dựng hệ thống các chùa chiền, am, tháp, mỗi chùa lại có những sự tích riêng. Danh thắng Yên Tử với đỉnh núi cao 1068m so với mực nước biển lên đỉnh núi lúc nào cũng có mây mù bao phủ, lại thêm phong cảnh thiên nhiên hữu tình, đa dạng và phong phú các loài động, thực vật, tiêu biểu có các cây đại thụ như cây tùng cổ 700 tuổi, cây đại cổ, các động vật tiêu biểu như cu li lớn, khỉ mặt đỏ, sơn dương, rồng đất,…Xung quanh quần thể chùa Yên Tử là các di tích và thắng cảnh nổi tiếng như Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử, Khu di tích lịch sử nhà Trần. Chúng ta bắt đầu hành trình lên đỉnh Yên Tử tại dòng suối Giải Oan và ngôi chùa Giải Oan, chính Phật Hoàng đã đặt tên Giải Oan nhằm giúp siêu độ cho những cung nữ theo hầu vua đã nhảy xuống suối tự vẫn khi vua không cho theo hầu hạ. Chùa Giải Oan vốn linh thiêng có tiếng, lưng tựa vách núi, mặt hướng ra dòng suối róc rách đêm ngày, đứng dưới chùa Giải Oan nhìn lên sẽ thấy ngọn núi Yên Tử cao vời vợi. Chùa Hoa Yên được coi là ngôi chùa chính của hệ thống chùa Yên Tử, chùa ở lưng chừng núi, thế rất vững chãi, cảnh trí nơi đây vô cùng tuyệt đẹp với trăm hoa đua nở, những đám mây dường như cũng kết thành những đóa hoa giăng trước cửa chùa. Con đường hành hương lên đỉnh Yên Tử luôn có những bậc đá và hàng cây xanh hai bên đường, hàng Tùng cổ thụ 700 tuổi với rễ bám sâu vào vách núi, tán rộng khổng lồ che rợm đường cho người phật tử. Vườn tháp trung tâm của chùa Yên Tử là khu Tháp Tổ gồm 64 ngọn tháp và mộ, ngoài ra còn có các am như am Ngự Dược, am Thung là nơi nghiên cứu, bào chế và sản xuất thuốc từ các loại thảo dược trên núi Yên Tử. Đặc biệt nhất là chùa Một Mái nằm ẩn sâu trong hang núi, chỉ phô ra bên ngoài nửa mái, cảnh chùa tĩnh lặng, thanh thoát dường như là một thế giới khác cách xa nơi trần tục. Ngoài các di tích chùa, am, tháp, nơi đây còn có Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử – thiền viện lớn nhất Việt Nam với kiến trúc uy nghiêm, khang trang và bề thế. Ngôi chùa cao nhất của Yên Tử là chùa Đồng, Phật Hoàng đã chọn nơi đây để tĩnh thiền, toàn bộ kết cấu đều được làm bằng đồng kể cả đồ thờ tự nhằm thích ứng được với khí hậu ẩm ướt quanh năm. Nếu bạn không muốn phải đi bộ đến 6 cây số đường rừng núi gập ghềnh đá để lên đỉnh Yên Tử thì ngày nay bạn có thể đi cáp treo, hệ thống cáp treo hiện đại gồm hai chặng, từ chân núi lên đến chùa Hoa Yên và từ chùa Hoa Yên lên đến chùa Đồng, khi đi bằng cáp treo du khách cũng sẽ được ngắm toàn cảnh vùng núi Yên Tử. Với ý nghĩa là “Đất tổ Phật giáo Việt Nam”, chùa Yên Tử là một trong những thắng tích Phật giáo được lựa chọn để các đại biểu tham dự lễ Phật đản trên khắp thế giới đến tham quan, chiêm bái. Lễ hội Yên Tử được tổ chức hàng năm từ ngày mùng 10 tháng Giêng và kéo dài đến hết tháng 3, mỗi dịp lễ hội thu hút hàng triệu du khách thập phương đến tham quan, lễ bái và cầu an.
Chùa Yên Tử hay quần thể di tích Phật giáo Yên Tử nói chung là một niềm tự hào đối với mỗi người dân Việt Nam, đó là minh chứng cho nét đẹp văn hóa tâm linh của dân tộc ta, về với Yên Tử như được trở về cội nguồn, về miền đất tổ của nền Phật giáo nước nhà.
Thuyết minh về chùa Yên Tử – Mẫu 3Yên Tử thuộc loại “danh sơn” (núi đẹp) cao 1068m, một dãy núi trùng điệp của vùng đông bắc nước ta.
Yên Tử cách thị xã Uông Bí. Tỉnh Quảng Ninh 14km về phía tây bắc. Núi Cánh Gà phía nam, dãy núi Bảo Đài ở phía bắc như những thành quách cổ xưa mở rộng cánh cửa dẫn khách hành hương bước vào thế giới Yên Tử. Suối Giải Oan nước trong veo uốn khúc, sỏi trắng và đá cuội rải đều. Đến xuân, rừng Yên Tử nảy lộc đơm hoa, hoa dành và hoa bướm vàng tươi, hoa hải đường và hoa thủy tiên nở bung những cánh mỏng phớt tím.
Dân gian gọi núi Yên Tử là núi Voi; sách xưa gọi là Bạch Vân Sơn (núi mây trắng) vì quanh năm đỉnh núi bao phủ một lớp mây mù. Phạm Sư Mạnh đã từng vịnh thơ cảnh sắc Yên Tử hữu tình nên thơ: “Lối đi có trúc, khe suối đầy hoa”.
Vào thời Ngô Quyền và dưới thời Lý, Yên Tử đã có chùa Yên Kỳ Sanh, Huệ Quang Thiền Sư đã từng tu luyện nơi đây. Phải đến năm 1299, vua Trần Nhân Tông từ ngai vàng, thoát vòng tục lụy đến Yên Tử tu hành, sáng lập Thiền phái Trúc Lâm của Đại Việt, thì nơi đây mới trở thành cõi linh thiêng của xứ sở.
Vượt dốc núi men theo bờ suối cheo leo ta đến với suối Vàng và Thác Tử uốn vòng theo chùa Vân Tiêu, hợp lưu dưới gốc cây sung già rồi đổ vào suối Giải Oan. Những linh hồn các cung nữ ngày xưa như đã nhập thiền vào chùa Giải Oan. Những cây cổ thụ xòe tán che rợp mái chùa, hoa loa kèn trắng mịn phơn phớt màu hoàng yến, những khóm hoa rừng nở xòe năm cánh với màu xanh, chùm nhụy tím bao bọc lấy 6 ngọn tháp, trong đó có tháp mộ vua Trần Nhân Tông; cảnh suối, chùa Giải Oan càng trở nên u huyền, trầm lịch.
Vượt qua một sườn núi độ 400m. ta đừng lại am Lò Rèn, leo qua những bậc đá ta vươn tới Hòn Ngọc. Trải qua hơn 700 năm, am xưa chùa cũ đã trở thành phế tích, chỉ còn lại những hàng tùng cổ thụ. Hai trăm bảy mươi tư cây tùng với ba loại chính: thành tùng, thúy tùng và xích tùng, thân cây bạc phếch mà lá cành vẫn sum suê, đứng trầm mặc như những chứng nhân của cửa Thiền qua năm tháng.
Cao hơn Hòn Ngọc độ 100 mét là khu tháp Tổ thờ Huệ Quang Thiền Sư. Ở đây có cây thông già trên nghìn tuổi. Thân cây to tròn, ba người ôm không xuể. Những cây đại già, nở hoa bốn mùa hương hoa tỏa ngào ngạt bao lấy 45 ngọn tháp với nhiều quy mô, kiểu dáng sắc màu tựa như những bông sen xòe cánh. Bạch Liên cư sĩ đến vãn cảnh mấy trăm năm về trước, đã xúc động đề thơ:
Advertisement
Chùa Hoa Yên ở phía sau Tháp Tổ trên độ cao 8m. Cúc vạn thọ nở vàng rực hoa dong đỏ tía nở khắp sân chùa, vườn chùa và bờ suối. Cây đại gốc xù xì đã có dư 700 tuổi nở bung những chùm hoa trắng dâng hương. Cuối thế kỷ 15 vua Lê Thánh Tông lên chơi, nhìn thấy rừng hoa nở mà cảm khái đổi tên chùa từ Vân Yên thành Hoa Yên. Chùa Hoa Yên có hơn 10 pho tượng, lớn bằng đồng, có quả chuông đúc từ thời Lê mặt khác bài minh hàng nghìn chữ nói về lịch sử phái Thiền Sư Trúc Lâm. Bên phải chùa là suối Ngự Đội (nơi vua tắm nước trong mát và có mùi thơm của các loài hoa rừng).
Đêm ở chùa Hoa Yên thật kì ảo. Tiếng suối róc rách mơ hồ tiếng tắc kè thảng thốt, tiếng rừng trúc rì rào, mùi hoa nồng nàn. Du khách mơ màng, chập chờn trong giấc mộng.
Vượt lên ta tới chùa Phổ Đà có Tháp Độ Nhân và 4 cây lão tùng; tiếp theo là am Ngọa Vân và Thác Tử. Nước Thác Tử sôi réo trong các khe đá, mát lạnh về mùa hè ấm nóng về mùa đông. Lội qua Thác Tử, ta đến am Ngọa Vân. Cả khu rừng trúc phủ mờ sương khói. Cảnh suối rừng, am chùa ẩn hiện trong làn mây trắng mỏng nhẹ, bồng bềnh như thực như mơ.
Dừng lại am Ngọa Vân chênh vênh bên sườn núi, ở đây còn có am Thung và am Dược, nơi các tăng ni ngày xưa giã thuốc và chế thuốc.
Vượt qua am Ngọa Vân khách hành hương leo lên chùa Bảo Sái. Dốc cheo leo gần như thẳng đứng. Với chiếc gậy trúc cầm tay. ai cũng cảm thấy lâng láng. Sen nở xòe 5 cánh hồng tươi, phong lan trắng, phong lan tía. hoa loa kèn nở rộ hoa lan mát dịu. Những cây vạn tuế lá xanh biếc bốn mùa, xòe tán như những chiếc rỏ xinh xinh. Cạnh giếng Thiêng là cây gạo lớn, thân tròn cao vút, nở hoa đỏ rực vào tháng ba. Dưới gốc gạo có con hổ đá, quỳ hai chân trước, nhìn vào am đá, hiền lành và chăm chú như đang trầm mặc và kính cẩn nghe kinh.
Phía trên chùa Bảo Sái là chùa Vân Tiêu, suối Hàm Long và rừng trúc bao la. Về mùa xuân, dưới những cơn mưa bụi, măng trúc, măng mai, măng giang Yên Tử mọc lên tua tủa, nhọn hoắt như tháp bút. Giữa rừng trúc là thế giới của loài chim, nào là cu xanh, cu đất, chào mào, cà cưỡng, cò lửa, chim chích… bay lượn làm mồi, tiếng kêu chao chác inh ỏi. Thỉnh thoảng xuất hiện vài con hạc, mấy chú đại bàng đất, dăm ba anh bồ nông hoặc đứng trên các mô đất cao, hoặc vắt vẻo trên ngọn thông, hiền lành và tư lự.
Rời chùa Vân Tiêu ta luồn qua cổng Trời, len lỏi trong rừng sú. Sú lộng cổ thụ cao chừng 2 m, gốc sần sùi cong queo kì dị, lưa thưa vài chiếc lá nhỏ. Ở đây có nhiều loài chim vẹt, mỏ đỏ, đuôi xanh kêu cheo chét nghe rất vui tai. Khỏi rừng sú, du khách đặt chân tới Chùa Đồng, chỏm cao nhất của Yên Tử. Khi tiếng chuông Chùa Đồng ngân vang ba hồi, hàng trăm con chim nhạn bay lên lượn vòng; tức thì mây trắng ùn ùn xô tới. Cuối canh tư đầu canh năm đứng trên Chùa Đồng, khi trời quang có thể nhìn thấy một vùng đông bắc bao la. Thích thú nhất là được ngắm mặt trời đỏ rực lúc rạng đông nhô dần trên ngấn bể màu lam. Ai còn nhớ bài thơ của Nguyễn Trãi thì khẽ ngâm lên. Có phút giây kì thú nào bằng:
(Đào Duy Anh dịch)
Với những mái chùa rêu phong, những am cổ, những suối, những khóm tùng cổ thụ, rừng trúc và trăm nghìn loài hoa,… mỗi bước chân của du khách khi leo lên sườn non vách động, tưởng như lạc lối vào cõi Phật Yên Tử mênh mông bao huyền tích. Phật tích cùng hoa rừng như ướp hương hồn người.
Đến với Yên Tử càng thấy rõ tâm đức của ông cha, càng yêu thêm cảnh trí hùng vĩ của giang sơn gấm vóc.
Hội xuân Yên Tử là một lễ hội rất lớn và đông vui; năm nào cũng có hàng vạn người trẩy hội. Ngày nay đã có cáp treo lên Yên Tử, nhưng leo núi lên chùa Hoa Yên, với tới Chùa Đồng… mới thật là thích thú
Văn Mẫu Lớp 9: Thuyết Minh Về Cây Phượng Dàn Ý &Amp; 16 Bài Văn Thuyết Minh Lớp 9 Hay Nhất
I. Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu về cây phượng (loài cây thân thuộc với tuổi học trò, thường trồng trong sân trường, lưu giữ nhiều kỷ niệm,…).
II. Thân bài
1. Giới thiệu khái quát về cây phượng:
Tên gọi: phượng, phượng vĩ, điệp tây,…
Nguồn gốc: từ Madagascar, trong các cánh rừng ở miền tây Malagasy.
Nơi sinh sống chủ yếu: vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới.
2. Đặc điểm của cây phượng:
Loại cây: cây to, thân gỗ
Chiều cao thân cây: có thể cao đến 20 mét.
Lá cây: lá phức, bề ngoài lá giống lông chim, màu lục nhạt,…
Hoa phượng: có hình dáng giống chim phượng xòe đuôi, cánh hoa lớn gồm 4 cánh màu đỏ tươi dài 8cm, cánh hoa thứ 5 mọc thẳng có lốm đốm màu trắng-vàng, cam- vàng
Quả phượng: thuộc loại quả đậu, khi chín có màu nâu sẫm, quả dài, rất nặng.
3. Vai trò của cây phượng:
Tán cây rộng, che bóng mát.
Hoa nở đẹp, tăng vẻ mỹ quan cho không gian được trồng.
Hạt rất bùi, có thể ăn được.
Nở hoa làm dấu chỉ thời gian cho mùa hè.
Cánh hoa đẹp thường được dùng ép vào vở, lưu lại kỉ niệm tuổi học trò.
Làm nguồn tài liệu sáng tác cho văn nghệ, thơ ca,…
4. Ý nghĩa của cây phượng:
Gắn với nhiều kỉ niệm bên mái trường.
Loài cây mang nhiều ý nghĩa biểu trưng, gửi gắm nhiều tình cảm của lứa tuổi học trò.
III. Kết bài
Khái quát cảm nghĩ của bản thân về cây phượng (loài cây ý nghĩa, chất chứa nhiều cảm xúc, nỗi niềm,….).
Đối với mỗi học sinh chúng ta, phượng là loài cây gần gũi mà nhất. Khi hè về, những tiếng ve râm ran kêu trên những nhành phượng đỏ rực cũng là lúc ta tạm xa thầy cô, bè bạn. Bởi thế mà loài hoa phượng luôn có một ý nghĩa đặc biệt trong lòng mỗi cô cậu học trò chúng ta.
Loài cây này được người ta tìm thấy tại những cánh rừng ở Madagascar. Ngoài ra, chúng còn được tìm thấy nhiều ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Cây phượng thuộc loài thực vật thân gỗ, có hoa, gồm hai loại là phượng đại thụ và phượng vĩ. Ngoài ra cũng có thể phân loại phượng theo màu sắc của hoa ví dụ như phượng vàng, phượng đỏ,…
Trung bình mỗi cây phượng cao từ 9m – 15m, có loại cao hơn có thể lên tới 20 mét. Thân phượng có lớp vỏ màu nâu nhạt, da không quá mượt mà nhưng cũng không phải quá sần sùi như nhiều loại cây khác. Bề rộng thân bằng một vòng tay người ôm hoặc có thể nhỏ hơn, lớn hơn tùy thuộc vào năm tuổi và sự sinh trưởng của cây. Rễ phượng ngoằn ngoèo, khá lớn và trồi lên trên mặt đất như hình những chú rắn nâu khổng lồ, chúng vươn ra khá dài để hút chất dinh dưỡng trong lòng đất nuôi cây phát triển. Phần ngọn của cây phượng là những tán lá dày đặc và toả rộng ra như những chiếc ô lớn bao trùm cả khoảng không rộng, tạo bóng mát cho mỗi sân trường, mỗi còn đường có dấu ấn của phượng vĩ. Lá phượng nhỏ, hình bầu, có màu xanh nhạt khi nôn, khi đã trưởng thành lá có màu xanh đậm. Vào mùa lá rụng, phượng chuyển màu lá từ xanh sang vàng nhạt, những lá phượng rơi bay bay trong gió nhẹ rồi in mình lên mặt đất thật đẹp và duyên dáng lạ thường. Phượng nở hoa vào mùa hạ, hoa phượng đỏ rực, những chùm hoa phượng đua nhau bùng cháy trên nền trời xanh thẳm, đẹp đẽ và rực rỡ. Những cánh hoa phượng khá lớn, có cánh dài đến 8cm, xếp đặt nối nhau, phần nhụy hoa có màu nâu đỏ, rất đẹp và đáng yêu. Chúng em thường rủ nhau nhặt những bông hoa phượng rơi rụng ép vào trong trang vở học trò in hình những chú bướm để lưu giữ chút kỉ niệm tuổi thơ. Phượng vĩ cũng có quả, quả phượng khi còn non có màu xanh, cong queo và rất nặng.
Phượng vĩ phát triển và sinh trưởng tốt trong khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới, loài cây này có khả năng chịu hạn mặn tốt vì vậy nó có thể sống được nhiều nơi, từ trung du, miền núi đến đồng bằng hay ven biển. Trong điều kiện ánh sáng đầy đủ cây phát triển rất nhanh, hoa đẹp và thân lớn, cho bóng mát rộng. Hiện nay, ở nhiều nơi trên thế giới, ta không khó để tìm kiếm những hàng phượng vĩ đỏ rợp trời, có thể kể đến khu vực Caribe, sa mạc Arizona hay California của Hoa Kì, ngoài ra còn được tìm thấy nhiều ở quần đảo Bắc Mariana. Ở đất nước ta, vào thế kỉ XIX, phượng vĩ được du nhập và trồng ở nhiều nơi như Đà Nẵng, Hải Phòng,…..Ngày này, nó được trồng phổ biến ở nhiều nơi khắp mọi miền đất nước từ Bắc vào Nam. Đặc biệt, phải kể đến thành phố Hải Phòng, nơi được mệnh danh là thành phố hoa phượng đỏ.
Phượng có vai trò trong việc toả bóng mát, đặc biệt là những ngày hè nóng nực, ngồi dưới bóng phượng tỉ tê, cùng nhau làm bài tập thật mát mẻ và dễ chịu biết bao. Trên những cung đường của thành phố, hai hàng phượng già toả bóng xanh, rợp cả những con đường che mát người lại qua, khung cảnh vừa yên bình lại vừa nên thơ. Phượng còn được trồng để làm đẹp cảnh quan, trong mỗi khuôn viên sân trường, bên dòng sông hay những góc công viên đều có bóng dáng của cây phượng. Vẻ đẹp kiêu kì vật rực rỡ của hoa phượng điểm tô cho đời đầy thu hút.
Gỗ của thân cây phượng được sử dụng để làm các đồ thủ công mỹ nghệ. Vỏ của cây phượng có nhiều tác dụng trong việc trị chướng bụng hay giảm huyết áp, trị sốt rét. Rễ cây cũng có tác dụng trong hạ sốt cho người bệnh.
Bên cạnh ưu điểm, loài cây này cũng tồn tại một vài hạn chế. Tuổi thọ của cây không cao, chỉ rơi vào khoảng độ 30- 50 năm tuổi. Gỗ lấy từ thân cây không có chất lượng quá tốt. Cây sinh trưởng với bộ rễ lớn nên ngăn cản nhiều đến sư phát triển của những loài thực vật mọc dưới. Tuy nhiên, ta không thể phủ nhận được giá trị và ý nghĩa mà nó mang lại.
Phượng vĩ chính là biểu tượng của tuổi học sinh hồn nhiên, thơ ngây bên mái trường. Viết về lứa tuổi ấy cũng có bao lời ca, tiếng ca dành cho cánh phượng đầy nâng niu và trân quý:
Ở góc sân trường em có một cây phượng vĩ già, chắc đã vài chục tuổi. Người ta đặt tên cho nó là phượng vĩ có lẽ dựa vào hình dáng của lá giống như chiếc đuôi của con chim phượng hoàng trong cổ tích.
Em nghe các thầy cô nói tại rằng, cây phượng này do một phụ huynh trồng từ lúc ngôi trường mới xây xong. Cây cao tới lan can lầu một, cành xòe rộng, lá sum suê tỏa bóng mát rượi. Gốc cây to bằng một vòng tay người lớn, màu nâu, xù xì nhiều mấu. Những chiếc rễ nổi ngoằn ngoèo trên mặt đất. Lá phượng là loại lá kép, gồm nhiều lá nhỏ, mỏng, màu xanh sẫm, mọc song song hai bên cuống. Tuốt hết lá đi rồi buộc túm lại với nhau, em đã có trong tay một cây vợt bắt bướm xỉnh xinh. Mỗi sớm mai, trong tán lá xanh, tiếng chim hót ríu rít nghe thật vui tai.
Hằng năm, khi tiếng ve bắt đầu cất lên ra rả cũng là mùa hoa phượng nở. Màu đỏ nồng nàn như lửa bao phủ khắp ngọn cây, nhìn xa giống như một mâm xôi gấc khổng lồ. Lúc ấy, trông cây phượng già trẻ hẳn lại, bừng bừng sức sống. Nhìn hoa phượng nở, những cô cậu học trò náo nức nghĩ tới một mùa hè đầy ắp niềm vui.
Hoa phượng năm cánh, bốn cánh đỏ mỏng như lụa và một cánh dày lốm đốm trắng. Giữa hoa là chùm nhụy dài và cong, đầu nhụy là túi phấn hình bầu dục. Chúng em rất thích chơi trò chọi gà bằng những chiếc nhụy hoa đó.
Hết mùa, hoa phượng tàn dần. Mỗi lần có cơn gió thổi qua, những cánh phượng lả tả bay theo chiều gió. Trái phượng non màu xanh nhạt, mỏng và dài, khe khẽ đung đưa trên cành. Cây phượng già trở lại vẻ đẹp mộc mạc, thân quen của nó.
Chúng em gọi hoa phượng bằng cái tên thân yêu “hoa học trò” và coi cây phượng như người bạn thân thiết. Gốc cây là nơi tụ họp quen thuộc của chúng em để vui chơi và học tập. Hoa phượng nở cùng với tiếng ve ngân ran ran trong vòm lá báo hiệu năm học kết thúc, một mùa hè lại đến. Lòng chúng em rộn lên bao cảm xúc khi nghĩ về những điều thú vị đang chờ phía trước.
Đầu năm học mới, cây phượng lại xòe bóng mát, che chở cho những cô bé, cậu bé học sinh cổ quàng khăn đỏ, vui chơi dưới sân trường.
Là học sinh, chắc hẳn chúng ta chẳng còn xa lạ gì với cây phượng. Loài cây gần gũi ở một góc sân trường không chỉ cho bóng mát mà còn gắn liền với biết bao kỉ niệm tuổi học trò, trở thành người bạn gần gũi của biết bao thế hệ học sinh.
Phượng có nguồn gốc từ những cánh rừng ở Madagascar. Tại Việt Nam, phượng vĩ được người Pháp du nhập vào trồng khoảng những năm cuối thế kỷ 19 tại các thành phố lớn như Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn.Phượng là loài cây thân gỗ. Thân phượng cao từ 6-12 m, chiều ngang phải hai người ôm mới xuể. Vỏ cây màu nâu, xù xì, những cây phượng già ở thân còn có những vết nổi lên như những cục u.
Lá cây là loại lá kép, màu xanh cốm, mỏng và nhỏ như lá me, mọc đối xứng nhau. Tán cây cao và rộng, trông xa như chiếc ô khổng lồ, từ cành chính mọc ra vô vàn những cành nhỏ hơn. Mùa hè, bóng cây râm mát che rợp một góc sân trường, mùa đông cây trút hết lá, cành cây trơ trụi, khẳng khiu. Rễ phượng thuộc loại rễ cọc, cắm sâu xuống lòng đất để hút chất dinh dưỡng, một vài rễ to trồi cả lên mặt đất, trông như những con giun bò ngoằn ngoèo.
Hoa phượng có 4 cánh tỏa rộng màu đỏ tươi hay đỏ cam, cánh thứ 5 mọc thẳng, lớn hơn những cánh kia một chút và lốm đốm trắng. Hoa phượng mọc thành từng chùm, một bông phượng có đến vô vàn những bông hoa. Hoa phượng mọc xen kẽ nhau tạo nên một ngọn lửa đỏ rực như muốn thiêu đốt cả cây, làm bừng sáng cả một khoảng trời rực rỡ. Mùa hoa hết, ta lại thấy những quả phượng dài và cong như lưỡi liềm.
Quả phượng khi non có màu xanh, già chuyển sang màu đen và có nhiều hạt.Phượng chiếm một vị trí đặc biệt trong cuộc sống của con người. Phượng thường được trồng ở những nơi công cộng như công viên, trường học để cho bóng mát. Tán phượng xanh mát vừa là chỗ cho chim muông làm tổ, vừa là nơi lí thú để học sinh nghỉ ngơi, hòa mình vào những trò chơi tinh nghịch.
Cây phượng cao lớn với những chùm hoa đỏ rực như lửa cháy cũng góp phần tô điểm cho phố phường, trường học. Loài hoa ấy đã trở thành biểu tượng cho thành phố Hải Phòng, được mệnh danh là thành phố hoa phượng đỏ. Thân cây dùng để lấy gỗ, tạo nên đồ nội thất trong gia đình. Rễ cây còn có công dụng ít ai ngờ tới là dùng làm thuốc.
Hoa phượng còn được ưu ái gọi với cái tên là hoa học trò. Có lẽ vì phượng thường nở vào mùa hè, là lúc những kì thi sắp tới và người học sinh phải tạm chia xa mái trường thân yêu. Nhìn những bông phượng kiêu hãnh khoe sắc đỏ trên nền là đám lá xanh mướt, lòng người học sinh không khỏi có những xúc động, xốn xang. Một chút lo lắng vì kì thi sắp đến. Một chút khẽ vui vì mùa hè về, kì nghỉ hè cũng đến. Một chút lưu luyến, bâng khuâng vì sắp phải tạm biệt thầy cô, bạn bè, cả cây phượng thân quen là nơi tụ tập bạn bè mỗi giờ ra chơi.
Đối với người học sinh cuối cấp, những cánh phượng ép khô trên trang vở chứa đựng biết bao tình cảm, là những hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng nhất của những ngày cắp sách đến trường. Chừng nào phượng còn hiện diện ở sân trường, thì phượng vẫn sẽ mãi là người bạn thân thiết của người học trò, chứng kiến những vui buồn, hờn giận, yêu ghét của tuổi mới lớn.
Và như một người bảo vệ già thầm lặng, phượng đứng đó, dang cánh tay rộng lớn như muốn bảo vệ cho cả ngôi trường, để lũ học sinh yên tâm vui đùa dưới tán cây râm mát:
(Phượng mười năm-Xuân Diệu)
Sắc đỏ của phượng cũng từng nhiều lần đi vào thơ ca nhạc họa, ta có thể kể đến Nhà thơ Thanh Tùng có bài thơ “Thời hoa đỏ” đã được nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc thành bài hát cùng tên, viết về những kỷ niệm của tuổi trẻ với mùa hoa phượng vĩ, tản văn “Hoa học trò” của Xuân Diệu.
Phượng dễ trồng và dễ sống. Cây tái sinh từ hạt và chồi đều mạnh, có thể phát triển trên mọi địa hình: ven biển, miền núi, trung du, đồng bằng… Cây phát triển nhanh, không kén đất, ưa sáng, rất dễ trồng. Tuy nhiên, cây có tuổi thọ không cao lắm, chỉ 30 tuổi đã già cỗi, thân mục rỗng, bị sâu bệnh tấn công. Những cây trồng trong trường học hoặc công viên có tuổi thọ cao hơn nhưng cũng chỉ tầm 40-50 tuổi.
Tình cảm của con người đối với cây phượng dù có dùng ngôn từ nào cũng không thể diễn tả hết. Phượng nở không chỉ là một mùa hoa, phượng nở gọi về bao kí ức tươi đẹp, gọi một thời ngây thơ, trong sáng và làm sống dậy cái phần ngủ quên bấy lâu trong tâm hồn mỗi người.
Mùa hè về lại một mùa râm ran tiếng ve. Nắng càng vàng, cây càng xanh, hoa càng thắm sắc. Được mệnh danh là “hoa học trò”, một mùa phượng vĩ lại đến. Những cây phượng nở hoa đỏ rực một vùng trời.
Phượng có tên khoa học là Delonix regia, thuộc họ Caesalpiniaceae. Cây có nguồn gốc từ Madagascar. Là cây có hoa rực rỡ và tạo bóng mát nên được trồng rộng rãi ở các nước nhiệt đới ẩm. Ở Việt Nam, cây được trồng quen thuộc ở các thành phố lớn và đặc biệt được trồng nhiều ở trường học và các công trình. Phượng phân bố rộng rãi ở các nước nhiệt đới ẩm, đặc biệt mọc tốt ở những nơi có lượng mưa từ 1.00 đến 2.00 mm/năm.
Vì điều kiện phù hợp nên khu vực Caribe trồng rất nhiều phượng vĩ.Phượng có chiều cao trung bình từ 2m trở lên. Có nhiều cây cổ thụ cao hơn cả nóc nhà. Khác với cây bàng, thân phượng không to và sần sùi. Thân cây chỉ cần một vòng tay ôm cũng bao trọn. Vỏ cây màu nâu ngả sang màu xanh rêu, không có những u bướu như cây bàng. Rễ cây lớn nổi gồ ghề trên mặt đất, đâm sâu xuống lòng đất hút nước và các chất dinh dưỡng để nuôi cây.
Phượng là loại cây lá kép gồm nhiều lá nhỏ, mỏng, màu xanh sẫm. Lá mọc song song ở hai bên cuống, trông xa như đuôi chim phượng. Có lẽ vì đặc điểm mà cây có tên là phượng vĩ chăng? Lá phượng không giống lá bàng to bằng bàn tay có thể che nắng che mưa. Lá phượng mỏng, từng lá một nhỏ bé rợp vào nhau không khít bởi thế ánh nắng có thể xuyên qua in thành từng đốm nắng trên mặt đất.
Mùa hè, khi tiếng ve bắt đầu râm ran, cũng là lúc hoa phượng nở. Nhắc đến phượng người ta sẽ nghĩ đến hoa phượng bởi màu sắc đặc trưng của nó. Một màu đỏ rực rỡ như lửa. Hoa phượng không mọc đơn mà mọc thành từng chùm lớn. Từng chùm lại đan vào nhau khiến cho cây phượng mỗi mùa ra hoa nhìn xa như mâm xôi gấc khổng lồ.
Hoa phượng có năm cánh, bốn cánh màu đỏ tươi và một cánh màu đỏ đốm trắng. Nhụy hoa phượng thường được lấy để chơi chọi gà. Nhụy hoa có hình bầu dục, dài và cong. Cánh hoa phượng khô thì được lũ học trò lấy về ép vào trong trang vở lưu bút. Phượng nở hoa vào tháng năm tháng bảy hàng năm. Hết mùa phượng nở, tháng tám, tháng mười sẽ có quả phượng.
Quả phượng non có màu xanh, mỏng dài khẽ đung đưa trong gió. Khi chín quả phượng có màu nâu đen, hình quả đậu dài dẹt. Cứ thế một vòng tuần hoàn sinh trưởng của phượng nối tiếp nhau. Cây phượng được trồng rất nhiều trên hè phố vì nó dễ trồng. Cây phượng có khả năng chịu hạn rất tốt và sinh trưởng đơn giản. Con người không cần quá chú tâm vào chăm sóc tưới nước thường xuyên mà cây vẫn có thể sống rất tốt. Đây là một trong những lý do cây phượng được trồng rất nhiều trên vỉa hè, các công ty, trường học có khuôn viên rộng.
Cây phượng vào mùa hè lá xanh tỏa bóng rất mát. Màu xanh của lá phượng nhìn vào cho ta một cảm giác tươi mát lạ thường. Cây phượng gắn liền với thế hệ tuổi học trò. Khi phượng bắt đầu nở báo hiệu cho một mùa chia tay đang đến. Những lưu luyến vấn vương in sâu trong từng cánh phượng. Những bức ảnh kỉ yếu với những vòng hoa phượng đội đầu hay những chùm phượng cầm tay ghi lại khoảnh khắc tươi đẹp nhất tuổi học trò ngây ngô hồn nhiên.
Cây phượng như một minh chứng cho quãng thời gian tươi đẹp nhất của cuộc đời đi học. Không chỉ vậy, hoa phượng còn đi vào trong thơ ca, trở thành những hình ảnh quen thuộc của các thi sĩ
(Tiều phu)
Hay:
(Luân Hoán)
Phượng cứ thân thương được gọi bằng cái tên thân mật: “Hoa học trò” như để khẳng định vị trí quan trọng của nó với lứa tuổi đẹp nhất đời người – tuổi học sinh. Vì vậy, cây phượng với mọi người sẽ mãi được nâng niu và trân trọng.
Nếu hoa đào, hoa mai tượng trưng cho mùa xuân ấm áp thì hoa phượng lại tượng trưng cho một mùa hè sôi động. Điều đặc biệt hơn cả là loài hoa này gắn liền với tuổi học sinh, với những ngày cắp sách đến trường của các cô cậu học trò. Đây là loài hoa gợi nhắc về những kỉ niệm thuở hồn nhiên, ngây dại trong mỗi chúng ta.
Cây phượng có nguồn gốc từ đất nước Madagascar. Tên khoa học của loài hoa này là Delonix regia. Ngoài ra, người ta còn gọi nó với các tên khác nhau như phượng vĩ, điệp tây hay xoan tây. Nó được trồng nhiều ở các vùng cận nhiệt và nhiệt đới, những nơi có khí hậu nóng ẩm.
Phượng thuộc loại cây thân gỗ, có lớp vỏ màu nâu, khá xù xì và sần sùi. Thân cây cao từ 10 – 15m nhưng cũng có cây cao tới 20 m. Chiều cao của nó có thể được tính bằng chiều cao của những ngôi nhà hai tầng. Phượng có rất nhiều cành lá tỏa ra xung quanh để tạo bóng mát.
Bộ rễ cọc khiến cây bám sâu vào mặt đất hút lấy các chất dinh dưỡng để cung cấp cho cây sinh trưởng và phát triển tốt. Nhưng nó không chịu nằm yên dưới lòng đất mà nổi lên trên mặt đất với hình dáng ngoằn ngoèo. Điều quan trọng nhất là bộ rễ này khiến cây trở nên vững chãi hơn trước mưa gió, bão bùng hay sự thay đổi của thời tiết.
Lá phượng là lá kép, có kích thước nhỏ. Chúng mọc đối xứng với nhau qua xương lá. Nổi bật lên giữa những tán lá xanh xum xuê là màu đỏ rực rỡ của hoa phượng. Hoa phượng có năm cánh mỏng, cánh phượng thứ năm thường có cấu tạo dày hơn bốn cánh còn lại. Nó mọc thẳng và trên cánh điểm xuyết những đốm trắng hoặc vàng trông rất thu hút. Ở chính giữa bông hoa là nhụy hoa hình bầu dục, góp phần tạo điểm nhấn cho toàn bộ bông hoa.
Hoa phượng không mọc từng bông đơn lẻ mà mọc thành từng chùm. Những chùm phượng đỏ tươi lấp ló sau kẽ lá khi mới vào mùa hạ đã tạo nên một bức tranh hài hòa về màu sắc. Nhưng đến tháng 6, tháng hoa phượng nở rộ nhất thì cả bầu trời dường như ngập tràn trong sắc đỏ.
Từng chùm phượng rung rinh trong lá hay tỏa sắc giữa ánh nắng mặt trời đều là những bức tranh tuyệt đẹp in đậm dấu ấn trong trí nhớ mỗi con người. Quả phượng có màu nâu đen, dài khoảng 20 đến 60 cm, bên trong có nhiều hạt và quả phượng khô được sử dụng làm dụng cụ trong âm nhạc.
Cây phượng có rất nhiều công dụng. Tán phượng rộng nên tỏa ra làm bóng mát cho con người, đặc biệt là cho các bạn học sinh vì ở nước ta phượng được trồng nhiều trong các trường học và trên hè phố. Những giờ ra chơi, các cô cậu học trò thường rủ nhau chơi những trò chơi dưới tán phượng như trò ô ăn quan, nhảy dây. Đây cũng là địa điểm lí tưởng cho các bạn ôn bài hay là nơi tâm sự, chia sẻ những câu chuyện về học tập, cuộc sống.
Phượng còn có tác dụng làm tăng thêm vẻ đẹp của không gian khi chúng được trồng ở trên những con đường, trên hè phố. Sắc đỏ của phượng xen kẽ với sắc tím của bằng lăng khiến ai đi qua cũng muốn dừng lại ngắm nhìn. Không chỉ thế, hoa phượng còn ghi dấu biết bao kỉ niệm của tuổi học trò. Ai đó đã tặng ta chùm phượng thay cho lời thương không dám nói. Các cô cậu học sinh thường lấy những cánh phượng, xếp thành hình con bướm ép trong cuốn lưu bút giữ làm kỉ niệm.
Ngoài ra, phượng còn được trồng để lấy gỗ dùng cho việc sản xuất các đồ gỗ dân dụng phục vụ đời sống con người. Vỏ cây, rễ cây dùng trị bệnh sốt rét và hạ nhiệt. Ở nhiều nơi, người ta trồng phượng để chống xói mòn đất bởi cây có rễ ăn sâu vào lòng đất và có tán lá rộng rất thích hợp cho việc chắn gió. Nhắc đến hoa phượng là nhắc đến mùa của thi cử, mùa của chia ly nên người ta còn gọi nó bằng cái tên vô cùng gần gũi, đó là hoa học trò. Chắc hẳn tuổi học trò của mỗi người không thể không có bóng dáng của cây phượng.
Cây phượng đã trở thành một nguồn cảm hứng dào dạt cho lĩnh vực nghệ thuật. Chúng ta có thể nhắc đến các bài hát nổi tiếng như “Phượng buồn”, “Phượng hồng”, “Nỗi buồn hoa phượng”, hay trong những vần thơ của Quốc Phương, Bùi Đức An,…
(Phượng hồng – Quốc Phương)
Phượng được xem là loài cây có sức sống mãnh liệt khi vượt lên trên sự oi bức, nắng gắt của mùa hạ để nở ra những bông hoa mang vẻ đẹp rực rỡ. Có thể nói cây phượng giữ một vai trò to lớn trong cuộc sống của con người. Người ta không chỉ yêu thích nó bởi vẻ đẹp mà còn bởi những công dụng nó mang lại cho đời sống.
Mùa hạ về, những cánh phượng hồng đỏ rực cả một góc trời, cũng là lúc báo hiệu mùa thi, mùa chia tay sắp đến. Biết bao thế hệ học trò đã đi qua, cây phượng vẫn sừng sững trước sân trường, che nắng mưa, lưu dấu kỉ niệm buồn vui của một thời “nhất quỷ nhì ma”.
Phượng vĩ có thật nhiều tên, từ tên khoa học Delonix regia, thuộc gia đình Caesalpiniaceae Họ poinciana có cùng một họ với đậu Leguminosae, giống Delonix. Nguyên giống phát xuất từ Madagascar, phượng vĩ đã được đi du lịch đến khắp mọi miền nhiệt đới trên thế giới, nhất là đông nam Á và châu mỹ Latinh.
Cũng vì vậy, phượng vĩ đã có thật nhiều tên gọi thông thường theo từng ngôn ngữ. Có lẽ vì màu sắc rực rỡ đỏ rực nổi bật trên nền trời, nên phượng vĩ được so sánh như những ngọn lửa giữa rừng, nó được thổ dân vùng Madagascar cho vào hạng hoàng tộc của thảo mộc. Nó còn là loài cây biểu tượng của quần đảo Bắc Mariana.
Cây phượng thuộc vào loại thân mộc, cao khoảng 6 – 12 mét, cành dài khoảng 20 – 40cm, dày đặc những lá kép nhỏ li ti. Phượng vĩ nở rất lâu, kéo dài từ tháng năm, tháng sáu cho đến tháng chín. Hoa phượng đỏ thẫm, đường kính khoảng 6 – 10cm mỗi hoa, 5 cánh hoa xòe rộng với những đốm bầm li ti trên cánh, và một trong năm cánh hoa màu vàng cam, hơi quăn góc, và thô hơn những cánh còn lại.
Bên trong nhụy hoa là tập hợp của mười nhánh, dài khoảng 10cm, với phấn hoa thu hút ong bướm. Sau khi hoa tàn, từ đài hoa mọc ra trái phượng, dẹp và dài khoảng 60cm, khi chín đen thẫm và vỏ cứng, có hạt màu nâu thẫm bên trong.
Cây phượng phát triển tốt trên mọi loại địa hình: ven biển, đồi núi, trung du. Cây thuộc loại ưa sáng, mọc khỏe, phát triển nhanh, không kén đất, rất dễ gây trồng. Tuy nhiên, nhược điểm lớn là tuổi thọ không cao: cây trồng trên đường phố chỉ 30 tuổi là đã già cỗi, thân có dấu hiệu mục rỗng. Sâu bệnh, nấm bắt đầu tấn công, cây trồng trong công viên, trường học có thể có tuổi thọ cao hơn nhưng cũng chỉ đạt 40 – 50 năm tuổi.
Gỗ phượng thuộc loại trung bình, dùng trong xây dựng, đồ gỗ dân dụng, đóng hòm, xẻ ván. Cây cho vỏ và rễ làm thuốc hạ nhiệt, chống sốt. Vỏ cây có thể sắc nước uống trị sốt rét, đầy bụng, tê thấp, giảm huyết áp. Lá trị tê thấp và đầy hơi. Trái phượng vĩ được sử dụng tại khu vực Caribe trong vai trò của bộ gõ âm nhạc với tên gọi: shak-shak hay maraca. Ngoài ra có thể được dùng làm củi đốt. Ở những miền quê Việt nam, đôi lúc hạt phượng được đem rang trong cát để ăn vì có nhiều dầu, vị bùi bùi thơm thơm.
Trong ngành tinh chế hóa chất, hương và dầu thơm, hoa của phượng vĩ được dùng trong việc xoa bóp làm giảm căng thẳng cơ bắp. Hương phượng vĩ giúp chúng ta có thể tách rời khỏi những phiền toái, và những cuộc tranh cãi không cần thiết. Biết sử dụng hương hoa phượng, người ta có thể thoải mái hơn, cũng như cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Bởi mùi hương hơi nồng, nhưng lại rất dễ dàng ăn sâu vào lòng người, cũng như sự chuyển vận và dễ dàng hòa nhập vào môi sinh.
Phượng vĩ được người ta tin tưởng có tác dụng làm cho con người bớt căng thẳng, dễ dàng kết bạn, dễ đi sâu vào lòng người. Nó giúp người ta giao thiệp dễ dàng và lịch sự, cũng như vượt qua được những bực bội, giận dữ, để tâm hồn thoải mái hơn.
Tại Việt Nam, phượng vĩ được người Pháp du nhập vào trồng khoảng những năm cuối thế kỷ 19 tại các thành phố lớn như Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn. Hiện nay phượng vĩ là loài cây được trồng rộng rãi từ Bắc vào Nam trên vỉa hè, công viên, trường học.
Vì cây có đặc điểm rụng lá vào mùa đông, xanh tươi vào mùa xuân, hè, thu, có tán lá sum sê, mở rộng tạo bóng mát và làm đẹp cảnh quan khi nở hoa. Thành phố Hải Phòng còn được gọi là thành phố Hoa phượng đỏ; nơi đây hoa phượng được trồng khắp nơi, có cả một công viên hoa phượng ngay trung tâm thành phố, có lễ hội hoa phượng diễn ra vào tháng 5 rất độc đáo.
Do mùa nở hoa của phượng trùng với thời điểm kết thúc năm học, mùa chia tay của học sinh nghỉ hè. Do đó, nó gắn liền với nhiều kỉ niệm buồn vui của tuổi học trò, và vì thế người ta gắn cho nó tên gọi “hoa học trò”. Vẻ đẹp rực rỡ, chói ngời của phượng vĩ đã làm say đắm biết bao nhiêu người, biết bao nhiêu câu chuyện, thơ văn, nhạc họa,… có hình bóng phượng vĩ đã ra đời, làm xao xuyến tâm hồn nhiều thế hệ.
Trong mỗi chúng ta, nếu đã trải qua thời áo trắng đến trường, ắt hẳn mỗi người đều mang trong mình một kỉ niệm đặc biệt, gắn liền với cây phượng thân yêu.
Hàng năm, đến khi những chú ve cất lên những tiếng hát gọi hè reo vang inh ỏi khắp sân trường. Tôi lại được nghe các cô cậu học trò nhắc đến tôi qua những câu đối rất đáng yêu và vô cùng ngộ nghĩnh:
Có lẽ là vậy sự xuất hiện chúng tôi có lẽ cũng đã gắn bó với ít nhiều với những kỉ niệm đẹp đẽ của các bạn học sinh. Mùa hạ thường đến với những mùa thi, cùng với những nhành phượng vĩ đỏ ối chúng tôi lấp ló để báo hiệu ngày chia tay mang đẫm những kỉ niệm vui buồn xen lẫn.
Đồng hành với màu đỏ rực của chúng tôi có lẽ chẳng có gì khác ngoài những hàng lưu bút, những dòng nhật kí theo năm tháng và là cả những món quà nho nhỏ lưu niệm dành tặng cho nhau của những cô cậu học trò nhí nhố.
Chúng tôi cũng dường như là nhân chứng cho những tình yêu lãng mạn mơ mộng vu vơ của thời học trò áo trắng cắp sách. Chúng tôi đặc biệt là thế đấy, luôn gắn liền với tuổi học trò. Và tôi không biết từ bao giờ, mọi người xem chúng tôi là một biểu hiện của mùa hạ, của một thời học trò.
Và cũng từ khi nào loài phượng vĩ chúng tôi còn có một biệt danh khác, một tên gọi khác: “Hoa học trò”? Loài phượng vĩ chúng tôi cũng có nhiều tên lắm đấy. Ngoài những cái tên độc đáo, đầy ấn tượng như là xoan tây, điệp tây, hoa nắng, chúng tôi còn có tên khoa học nữa cơ.
Tên khoa học của chúng tôi là Delonix regia, thuộc gia đình Caesalpiniaceae, Họ poinciana có cùng một họ với đậu (Leguminosae), giống Delonix. Loài chúng tôi đa số sinh sống và phát triển tốt ở vùng nhiệt đới hay cận nhiệt đới, nhưng vẫn có thể kiên cường chống chọi với điều kiện khô hạn và sống được cả những nơi đất mặn. Tôi nghe cha tôi kể lại rằng, tổ tiên của tôi có nguồn gốc từ Madagascar cơ đấy. Tại đó con người ta tìm thấy tổ tiên chúng tôi trong các cánh rừng ở miền tây Malagasy.
Thế là từ đó, dòng họ của tôi đã được tận hưởng một chuyến du lịch đến khắp mọi nhiệt đới trên thế giới, nhất là Đông Nam á và châu mỹ latinh. Có lẽ vì màu sắc rực rỡ đỏ rực nổI bật trên nền trời, nên chúng tôi được so sánh như những đốm lửa ấm nóng chói chang giữa rừng chăng?
Tôi chỉ được biết rằng, màu đỏ thắm của chính loài hoa chúng tôi đã được thổ dân vùng Madagascar cho vào hạng hoàng tộc của thảo mộc, cũng như được công nhận là hoa biểu tượng cho xứ Puerto Rico.
Tại Việt Nam, chúng tôi được người Pháp du nhập vào trồng vào những năm cuối thế kỷ 19 tại các thành phố lớn như: Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn và dần được trồng rộng rải từ Bắc vào Nam trên vỉa hè,công viên, trường học. Chúng tôi thuộc vào loại thân mộc, có thể cao lên đến từ 5-12 mét với những tán lá xòe rộng và dày như một chiếc dù khổng lồ. Mỗi cành lá dài khoảng 20-40cm, dày đặc những chiếc lá kép li ti có màu lục hơi nhạt đặc trưng, nhỏ nhỏ xinh xinh như những chiếc lông chim.
Những bông hoa màu đỏ thẫm lượn theo những đường cong mềm mại, mỗi cánh có thể dài tới 8cm, 5 cánh hoa xòe rộng như những chiếc chong chóng sắp quay. Hoa có 4 cánh có màu đỏ thẫm rực rỡ với cánh thứ năm mọc thẳng, hơi quăn góc, lấm chấm những đốm đỏ đậm, lớn hơn một chút và có phần thô hơn 4 cánh kia.
Bên trong những chiếc cánh hoa ấy chính là bầu nhụy và có những cánh nhụy dài có phấn hoa màu vàng với hương thơm thoang thoảng, thư thái, an lành nhưng đượm đầy sự quyến rũ khiến các loài ong bướm mê mẩn.
Đến khi hoa tàn, từ những đài hoa nhỏ nhắn đấy lại mọc ra những trái phượng đẹp, dài đến 60cm và rộng chừng 5cm, khi chín có màu đen thẫm và vỏ cứng bao bọc những hạt phượng màu nâu thẫm bên trong.
Chính nhờ có được những phẩm chất ngoại hình trời phú như vậy nên loài phượng vĩ tôi đây vô cùng tự hào vì còn được ví von như là loài cây nhiều màu sắc nhất trên thế giới. Những bông hoa đỏ rực rỡ sáng chói trong nắng cùng với nhị vàng hòa lẫn với những màu xanh lục của lá cây làm loài phượng chúng tôi lộng lẫy một cách giản dị vô cùng mà không thể nhầm với loài nào khác cả.
Đối với các cô cậu học trò, loài phượng chúng tôi cũng đặc biệt lắm chứ. Chúng tôi ghi lại dấu mốc quan trọng của mỗi cô cậu học chúng tôi chúng tôi bắt đầu chớm nở là thời điểm của mùa thi cuối năm, dù các bạn có thành công hay thất bại thì điều đó vẫn đem lại cho các bạn những bài học vô cùng quý giá khiến các bạn trưởng thành hơn.
Những bông hoa của tôi còn được các bạn hái để ép thành những con bướm vào những trang nhật kí, trang sách; nhị của bông hoa các bạn hái để chơi những trò chơi ngộ nghĩnh như “đá gà”; tán lá giúp che nắng, che mưa cho các cô cậu học trò vào những ngày hè oi bức hay những ngày mưa tầm tã; thân cây chúng tôi để các bạn khắc lên những dấu ấn kỉ niệm thân thương theo năm tháng; quả của chúng còn được một số bạn nam tinh nghịch hái để chơi đánh kiếm.
Và khi chúng tôi đã nở rộ thì có lẽ cũng đã đến thời điểm các bạn phải xa lìa nhau. Ôi, mới nghĩ đến thôi tôi cũng đã cảm thấy nao lòng rồi. Năm nào cũng vậy, tuy đã quen nhưng tôi vẫn không thể nào tránh được cảm giác xao xuyến khi thấy các bạn chia tay.
Các bạn cùng tặng nhau những món quà lưu niệm nho nhỏ, trao cho nhau những lời chúc tốt đẹp và những lời chia tay thấm đẫm những nỗi buồn của các cô cậu học sinh, như không muốn xa lìa.
Tuy vậy, đến đầu tháng năm, thời kì chúng tôi ra hoa đẹp nhất, tôi lại được chứng kiến các cô cậu học trò gác qua những nỗi buồn và lục đục cho những ngày hè sôi động đang đón chờ khiến tôi cũng phấn khởi theo.
Ngoài ra, trong đời sống con người sao có thể thiếu tôi được chứ: quả khô dùng để làm củi này, gỗ được dùng trong xây dựng, đồ gỗ dân dụng, vỏ và rễ còn dùng để làm thuốc để chữa một số bệnh, và còn vô vàn những lợi ích khác.
Ở Việt Nam, vào những dịp hè về, nếu có dịp ghé qua Hải Phòng, các bạn sẽ thấy một thành phố mang mác đầy những sắc đỏ của hơn 9000 những người anh em tôi được gieo rải khắp thành phố. Hay mỗi năm vào tháng sáu, miền nam Florida thường tổ chức hội hoa Phượng Vỹ để mọi người cùng thưởng hoa, như người Nhật thường có hội hoa Sakura chăng?
Vì cái đẹp của phượng vỹ, và vì sự bền bỉ của cây phượng qua bao nhiêu năm tháng, dù trụi cành giữa mùa đông nhưng xanh tươi trong những tháng ngày còn lại trong năm, và vì tán lá xanh um mở rộng như chiếc dù che nắng mưa, phượng vỹ có lẽ vì thế được ưa chuộng trong những khuôn viên học đường, những công viên, dọc theo hai bên đường phố hầu tạo được bóng mát trên đường, và làm cảnh đẹp mỗi mùa phượng nở.
Có lẽ chúng tôi sẽ mãi là biểu tượng cho tuổi học trò. Dưới các mái trường thân yêu, không phải ai hết mà chính là chúng tôi cũng đã lần lượt chứng kiến lũ học trò đang dần trưởng thành và rời xa những mái trường. Chúng tôi khắc ghi lại bao nhiêu dấu ấn kỉ niệm buồn vui học trò, từ những ngày tháng vui đùa bên nhau cho đến khi xa lìa.
Cũng hạnh phúc lắm chứ. Có lẽ vì thế mà biết bao người, từ châu Âu đến châu Á, đã viết biết bao nhiêu mẩu chuyện, làm biết bao nhiêu bài thơ, bao nhiêu bức tranh, và nhất là phối âm bao nhiêu bản nhạc riêng cho chúng tôi, ví dụ như bản “Poinciana”, và có phải vì thế, bao tâm hồn thi sĩ bắt đầu biết nhớ, và biết mong “Sớm Nở Phượng Yêu”.
Ở Việt Nam cây phượng vĩ được trồng ở rất nhiều nơi nhưng được trồng nhiều nhất có lẽ là ở trong sân trường. Hầu như trường học nào cũng trồng cây phượng bởi vì phượng tỏa bóng mát giúp cho học sinh có thể vui chơi bên dưới thoải mái.
Những cây phượng vĩ có tên gọi khoa học là Delonix regia, thuộc gia đình Caesalpiniaceae họ poincianas có cùng một họ với đậu, giống Delonix. Nếu để ý quả cây phượng bạn sẽ thấy nó như một quả đậu khổng lồ. Cây phượng vĩ được trồng rất nhiều ở vùng nhiệt đới. Hoa phượng có màu đỏ thắm, cũng có loại có màu vàng và được xếp vào hạng hoàng tộc của thảo mộc đối với người dân ở vùng Madagascar.
Phượng vĩ là loại cây thuộc giống thân gỗ. Mỗi cây cao khoảng 6-12 mét với tán lá xòe rộng như chiếc dù lớn. Cành cây dài khoảng 20-40cm và có những cái lá kép nhỏ li ti. Những bông hoa khi nở có màu đỏ thắm với đường kính khoảng 6-10c. Hoa phượng có hương thơm dịu nhẹ nhưng đủ sức để thu hút lũ ong bướm đến hút phấn hoa.
Suốt 3 tháng hè hoa phượng nở đỏ rực. Đến khi hoa phượng tàn, từ đài hoa mọc ra trái phượng, đẹp và dài khoảng 60cm. Ban đầu quả phượng có màu xanh nhưng khi chúng chín già chúng có màu đen thẫm và vỏ cứng. Ở bên trong quả phượng có những hạt phượng màu nâu thẫm. Nếu như rang lên, hạt phượng có thể ăn được hoặc nếu không có thể sử dụng để làm củi đốt.
Từ phượng vĩ, người ta có thể tinh chế hương và dầu thơm để dùng làm chất xoa bóp giúp làm giảm căng thẳng cơ bắp. Xoa bóp với tinh dầu phượng vĩ có thể giúp con người có được một cảm giác thoải mái. Nhờ có sắc đỏ đặc trưng cùng với tán cây rực rỡ, hào nhoáng nên mỗi khi hoa phượng nở rộ chúng lại khiến lòng người xao xuyến.
Loài hoa này vì vậy xứng đáng được liệt kê vào hạng hoàng tộc trong tất cả các loại cây cảnh. Phượng vĩ một năm chỉ nở duy nhất 1 lần nhưng có lẽ cũng chính vì vậy mà chúng rất lâu tàn. Từ khi bắt đầu nở cho đến khi tàn, phượng vĩ vẫn giữ nguyên sắc đỏ của mình. Chúng có khả năng chịu bão rất tốt. Sau những cơn mưa lớn, những trận bão to, chúng ta vẫn thấy những bông hoa rực rỡ khoe sắc và dường như chúng còn đẹp hơn cả lúc trước.
Cây hoa phượng vĩ có một sức sống rất dẻo dai và bền bỉ. Ngay cả khi bị trụi cành vào giữa mùa đông nhưng sang đến mùa xuân và những mùa sau đó chúng vẫn xanh tươi. Tán lá của chúng thì mỗi ngày lại càng vươn ra xanh um. Chúng xòe rộng như những chiếc ô che mưa, che nắng. Cũng chính nhờ công dụng cho bóng râm mà cây phượng vĩ được trồng nhiều trong trường học.
Trên thế giới, có biết bao nhiêu nhà văn, nhà thơ đã sáng tác nên những câu chuyện ngay, những bài thơ đặc sắc về cây phượng vĩ. Hay những bức họa, những bản nhạc,… Tất cả đã đọng lại trong lòng người hình ảnh về những cây hoa phượng lung linh. Cũng nhờ vậy mà cây phượng vĩ trở nên quen thuộc, gần gũi và thân thiết hơn với con người, đặc biệt là với học sinh. Cây hoa phượng vĩ cũng vì vậy mà được gọi là cây hoa học trò.
Con người lớn lên và trưởng thành từng ngày nhưng cây phượng vĩ thì vẫn ở đó, che mưa che nắng cho biết bao nhiêu thế hệ học trò. Bông hoa học trò đã mang đến cho đời những hương sắc tươi đẹp và là nơi lưu giữ kỉ niệm vui buồn của những cô cậu học sinh.
Phượng vĩ được trồng ở nhiều nơi nhưng chủ yếu nhất vẫn là ở sân của các trường học. Hầu hết các trường học đều có phương vị bởi nó sẽ gắn liền với kỉ niệm của tuổi học trò.
Mùa hạ đến những cánh phượng đỏ rực cả một góc trời, cũng là lúc nó báo hiệu ngày chia tay sắp đến. Phượng Vỹ được gọi với tên khoa học Delonix regia, thuộc gia đình Caesalpiniaceae Họ poinciana có cùng một họ với đậu (Leguminosae), giống Delonix. Phượng vĩ được trồng ở các vùng nhiệt đới của khắp thế giới. Màu đỏ thắm của phượng vỹ đã được cho vào hạng hoàng tộc của thảo mộc đối với người dân ở vùng Madagascar.
Cây phượng vỹ thuộc loại thân gỗ cao khoảng 6-12 mét, với tán lá xòe rộng như chiếc dù lớn, với những cành dài khoảng 20-40cm, dày đặc những lá kép nhỏ li ti. Khi hoa nở cánh hoa đỏ thẫm, đường kính khoảng 6-10cm mỗi hoa, với năm cánh hoa xòe rộng.
Bên trong nhụy hoa có mười nhánh, dài khoảng 10cm, với phấn hoa thu hút ong bướm. Khi hết thời kì của hoa, từ đài hoa mọc ra trái phượng, đẹp và dài khoảng 2 feet, khi chín đen thẫm và vỏ cứng, với hạt phượng màu nâu thẫm bên trong. Hạt phượng có thể rang lên để ăn hoặc làm củi đốt.
Người ta có thể tinh chế hương và dầu thơm(essence) của phượng vỹ để dùng làm chất xoa bóp (massage) làm giảm căng thẳng cơ bắp, đem lại cho con người cảm giác thoải mái. Với màu đỏ đặc trưng, với tán cây rực rỡ, hào nhoáng mỗi khi hoa nở rộ, loại cây duyên dáng này xứng đáng để được liệt kê vào hạng hoàng tộc trong tất cả các loại cây cảnh.
Hoa phượng vỹ rất lâu tàn, chúng giữ nguyên sắc đỏ từ đầu mùa hạ cho đến đầu thu. Phượng vĩ có khả năng chịu bão rất tốt, sau mỗi cơn bão chúng vẫn đứng sừng sững giữa đất trời.
Cây phượng có một sức sống rất dẻo dai và bền bỉ, dù trụi cành giữa mùa đông nhưng xanh tươi trong những tháng ngày còn lại trong năm, và vì tán lá xanh um mở rộng như chiếc dù che nắng mưa, nên phượng được trồng nhiều ở các trường học.
Có rất nhiều các nhà văn nhà thơ trên thế giới đã viết biết bao nhiêu câu truyện, làm biết bao nhiêu bài thơ, bức tranh, và nhất là phối âm bao nhiêu bản nhạc riêng cho phượng vỹ, điều đó càng làm cho phượng vĩ thêm gần gũi, thân thiết với tuổi học trò.
Dù năm tháng đã qua đi, nhưng cây phượng vĩ vẫn nằm nguyên đó, che nắng mưa cho học trò và tạo nên những sắc hoa làm đẹp cho đời. Chia sẻ niềm vui cũng như nỗi buồn của biết bao thế hệ học trò.
Trong chúng ta có lẽ ai cũng có những mùa hè rực cháy trong cuộc đời. Và lấp ló sau những kí ức tuổi thơ đấy chính là bóng dáng thấp thoáng của cây phượng nơi sân trường.
Nhắc đến mùa hè cũng là nhắc đến hình ảnh đỏ rực một góc nơi sân trường, phượng vĩ! Loài cây này không chỉ là một loài cây mang lại bóng mát mà nó còn là biểu tượng của sân trường, biểu tượng của thời áo trắng với biết bao bạn học sinh. Loài cây biểu tượng này có nguồn gốc bắt nguồn từ cánh rừng ở Madagascar.
Không chỉ tới đất nước Việt Nam nhỏ bé mà phượng vĩ đã được mang tới khắp các vùng đất nhiệt đới trên thế giới. Trong đó khu vực được phượng du lịch nhiều nhất chính là châu Mỹ Latinh và Đông Nam Á. Tên khoa học của phượng vĩ là Delonix regia. Nó thuộc gia đình Caesalpiniaceae, họ poinciana.
Cây phượng có họ với đậu Leguminosae. Vào những năm cuối thế kỉ 19, phượng vĩ được người Pháp du nhập vào Việt Nam tại những thành phố lớn như Đà Nẵng, Sài Gòn, Hải Phòng. Thành phố Hải Phòng hay còn gọi là thành phố hoa phượng đỏ. Trong thành phố còn có cả một công viên hoa phượng sặc sỡ.
Đây là một loài cây thân gỗ. Phượng có chiều cao từ 6-12 mét, chiều ngang khá lớn phải hai người ôm mới xuể. Vỏ cây phượng khá xù xì. Đối với những cây phượng già thậm chí còn có thêm những cục u nổi lên thân cây một cách gồ ghề. Tạo nên tán cây rợp mát là chính là từ những lá cây với những chiếc lá kép.
Nhìn sơ qua có thể nhầm lẫn là lá me vì hình dáng mỏng là nhỏ của nó, cùng màu xanh cốm và mọc đối xứng nhau. Để trở thành một loài cây được trồng trong sân trường lấy bóng mát đặc thù như thế thì cây phượng phải sở hữu đặc điểm gì chứ. Đó chính là sự tỏa rộng và cao rợp của tán cây phượng, cành cây dài khoảng 20-40cm.
Bóng dáng của tán cây phượng từ xa nhìn lại trông như một chiếc ô khổng lồ, với vô vàn tán cây xen kẽ thi nhau mọc ra từ cành chính. Khoảng thời gian từ tháng năm đến tháng chín chính là mùa hoa phượng nở. Hoa phượng nở rất lâu và kéo dài xuyên suốt mùa hè rực rỡ. Hoa phượng có màu đỏ thẫm đặc trưng, một bông hoa gồm có 5 cánh hoa kết hợp lại.
Tuy nhiên không chỉ có một màu đỏ đơn sắc mà trên những cánh hoa cũng có những đốm màu vàng, cam nhạt. Cũng vì đặc điểm đó mà những cánh hoa phượng trông như những cánh bướm nhiều màu sắc và rực rỡ biết bao.
Một trong năm cánh hoa còn có một cánh hoa màu cam hoặc vàng nhạt. Cánh hoa này không hề mỏng và thẳng như những cánh bình thường, nó có những góc hơi quăn lại và cứng. Như một quy luật của tự nhiên, hoa tàn sẽ sinh ra quả. Khi hoa tàn từ đài hoa cũng mọc ra trái phượng. Trái phượng có hình dáng dài khoảng 60cm và dẹp hẳn lại.
Lúc còn non vỏ trái có màu xanh lá, khi chín thì chuyển thành màu đen và cứng lại. Bên trong trái chứa nhiều hạt nhỏ màu đen. Phượng là một loại cây rất dễ trồng. Nó thuộc loại cây ưa sáng, không kén đất và có sự phát triển rất nhanh. Bất kể ở những địa hình như đồi núi, ven biển, trung du thì cây phượng đều có khả năng sinh trưởng tốt.
Dù thế nhưng cây phượng lại có một nhược điểm đó chính là tuổi thọ của nó không được cao. Với những cây phượng được trồng và chăm sóc trong sân trường có tuổi thọ từ 40-50 năm tuổi. Còn đối với những cây phượng được trồng ngoài đường phố thì chỉ có tuổi thọ tới 30 tuổi. Khi đến tuổi thì thân cây bắt đầu già cỗi và có dấu hiệu mục rỗng.
Không chỉ là loài cây lấy bóng mát mà phượng còn có thể lấy gỗ. Gỗ của nó thuộc loại trung bình, được sử dụng trong việc xây dựng cũng như để xẻ ra và làm ván. Thậm chí nó còn có chức năng trị bệnh từ vỏ cây đến rễ cây. Rễ cây có thể làm thuốc chống sốt, thuốc hạ nhiệt. Còn có thể sử dụng vỏ cây để làm sắc nước uống.
Có tác dụng như trị tê thấp, sốt rét, đầy bụng hay giảm huyết áp. Lá cũng có tác dụng trị đầy hơi và trị tê thấp. Trái phượng vĩ với tính chất khô nên được dùng để làm củi. Thậm chí nó còn được dùng làm bộ gõ âm nhạc tại khu vực Caribe, được gọi là shak-shak hay maraca. Hạt của cây phượng còn có thể rang lên ăn với vị bùi bùi, nhiều dầu và thơm nữa.
Từ hoa phượng vĩ người ta còn tinh chế ra được hương và dầu thơm. Chúng được sử dụng để xoa bóp giúp cơ bắp đỡ căng cứng. Mùi hương của phượng vĩ rễ ăn sâu vào lòng người dù cho mùi hương của nó hơi nồng. Mùi hương này dễ dàng hòa nhập vào môi sinh. Người ta tin rằng phượng vĩ có thể giúp người khác cảm giác bớt căng thẳng hơn. Có lẽ vì vậy mà mỗi buổi trưa hè nắng gắt khi đứng dưới tán phượng ta lại hưởng thụ và thong thả đến thế.
Chính là những hương thơm này khiến cho tâm hồn ta dịu dàng và tận hưởng những phút giây trên sân trường.
(Phượng mười năm-Xuân Diệu)
Bởi vì mùa hoa phượng nở cũng trùng hợp chính là thời điểm nghỉ hè. Là lúc học sinh xa mái trường thân yêu, thầy cô dịu hiền và bạn bè đồng trang lứa. Dưới tán cây rợp hoa đó đã có biết bao giọt nước mắt chia ly của những cô cậu học trò, biết bao kí ức thân thuộc của đời học sinh. Chính bởi vì thế mà hoa phượng còn được gọi là hoa học trò.
Một cái tên thân thuộc và gần gũi biết bao. Hình bóng của những cánh hoa, màu sắc rực rỡ của nó dưới cái nắng hè chói chang đã khiến không biết bao tâm hồn thi sĩ, nghệ sĩ xao xuyến.
Trong chúng ta nếu như ai đã từng có một thời gian cắp sách đến trường thì chắc chắn vẫn luôn có một hình bóng phượng vĩ. Biểu trưng cho một thời ngây ngô, trong sáng và hồn nhiên tuổi học trò. Thời gian có thể khiến chúng ta thay đổi, nhưng kí ức sẽ mãi ở đó cùng với tán phượng của tuổi thơ.
Trong cuộc sống và những kỷ niệm học sinh, mùa hạ thường đến bằng mùa thi, cùng với những nhành phượng vĩ đỏ ối lấp ló báo hiệu ngày chia taỵ. Cùng với màu đỏ rực của phượng vỹ, là những hàng lưu bút, là những món quà nho nhỏ lưu niệm tặng nhau của những cô cậu học trò.
Phượng vỹ dường như là nhân chứng cho những tình yêu, lãng mạn mơ mộng vu vơ của thời học trò áo trắng cắp sách. Và còn nhiều nữa. Trong mỗi chúng ta, nếu đã trải qua thời áo trắng đến trường, ắt hẳn mỗi người đều mang một kỷ niệm đặc biệt, gắn liền với phượng vỹ. Từ bao giờ, phượng vỹ trở thành biểu hiện của mùa hạ, và của một thời học trò. Có phải vì thế mà phượng vỹ còn có cái tên Hoa Học Trò?
Phượng Vỹ có thật nhiều tên, từ tên khoa học Delonix regia, thuộc gia đình Caesalpiniaceae Họ poinciana có cùng một họ với đậu (Leguminosae), giống Delonix. Nguyên giống phát xuất từ Madagascar, phượng vỹ đã được đi du lịch đến khắp mọi miền nhiệt đới trên thế giới, nhất là đông nam Á và châu mỹ Latin.
Cũng vì vậy, phượng vỹ đã có thật nhiều tên gọi thông thường theo từng ngôn ngữ, ví dụ như: royal poinciana, flame tree, flamboyant, flame of the forest, ‘ohai-‘ulăHawaiian), Semarak Api(Malay), Flameado (Tây Ban Nha) hoặc Phượng Vỹ, v.v. Có lẽ vì màu sắc rực rỡ đỏ rực nổI bật trên nền trời, nên phượng vỹ được so sánh như những ngọn lửa giữa rừng chăng? Chỉ biết rằng, màu đỏ thắm của phượng vỹ đã được thổ dân vùng Madagascar cho vào hạng hoàng tộc của thảo mộc, cũng như nó được công nhận là hoa biểu tượng cho xứ Puerto Rico.
Thuộc vào loại thân mộc, cây phượng vỹ cao khoảng 6-12 mét, với tán lá xòe rộng như chiếc dù lớn, với những cành dài khoảng 20-40cm, dày đặc những lá kép nhỏ li ti. Hoa phượng đỏ thẫm, đường kính khoảng 6-10cm mỗi hoa, với năm cánh hoa xòe rộng. Cánh hoa đỏ thẫm với những đốm bầm li ti trên cánh, và một trong năm cánh hoa màu vàng cam, với những đốm đỏ thẫm, hơi quăn góc, và thô hơn những cánh còn lại.
Bên trong nhụy hoa là tập hợp của mười nhánh, dài khoảng 10cm, với phấn hoa thu hút ong bướm. Sau khi hoa tàn, từ đài hoa mọc ra trái phượng, dẹp và dài khoảng 2 feet, khi chín đen thẫm và vỏ cứng, với hạt phượng màu nâu thẫm bên trong. Trái phượng có thể được dùng làm củi đốt. Ở những miền quê Việt nam, đôi lúc hạt phượng được đem rang trong cát để ăn vì có nhiều dầu, vị bùi bùi thơm thơm.
Trong ngành tinh chế hóa chất, hương và dầu thơm(essence) của phượng vỹ được dùng trong việc xoa bóp(massage) làm giảm căng thẳng cơ bắp. Hương phượng vỹ giúp chúng ta có thể tách rời khỏi những phiền toái, và những cuộc tranh cãi không cần thiết. Biết sử dụng hương hoa phượng, người ta có thể thoải mái hơn, cũng như cảm thấy nhẹ nhàng hơn để bắc nhịp cầu liên lạc giữa người với người.
Bởi mùi hương hơi nồng, nhưng lại rất dễ dàng ăn sâu vào lòng người, cũng như sự chuyển vận và dễ dàng hòa nhập vào môi sinh, phượng vỹ vì thế được người ta tin tưởng có tác dụng làm cho con người bớt căng thẳng, dễ dàng kết bạn, dễ đi sâu vào lòng người…Nó giúp người ta giao thiệp dễ dàng hơn, và lịch sự hơn với nhau, cũng như vượt qua được những bực bội, giận dữ, để tâm hồn thoải mái hơn.
Phượng Vỹ được gọi là mệnh phụ của những loại cây cảnh. Với tán cây rực rỡ, hào nhoáng mỗi khi hoa nở rộ, loại cây duyên dáng này xứng đáng để được liệt kê vào hạng hoàng tộc trong tất cả các loại cây cảnh. Phượng vỹ nở rất lâu, và mùa phượng vỹ thường kéo rất dài, từ tháng năm, sáu đầu mùa hạ, cho đến cuối mùa vào tháng chín.
Thông thường vào mùa hạ ở những vùng nhiệt đới hay có giông bão, thế mà phượng vỹ lại rất kiên cường, và rất đáng ngạc nhiên rằng sau những cơn mưa bão đổ, cây vẫn không bị đốn, và hoàn toàn không sao cả. Chỉ có những cành cây giòn dễ gãy, để cho cả lùm cây phượng không bị đốn vì gió. Có thể vì thế mà cây phượng tồn tại được dưới trời bão chăng?
Vì cái đẹp của phượng vỹ, và vì sự bền bỉ của cây phượng qua bao nhiêu năm tháng, dù trụi cành giữa mùa đông nhưng xanh tươi trong những tháng ngày còn lại trong năm, và vì tán lá xanh um mở rộng như chiếc dù che nắng mưa, phượng vỹ có lẽ vì thế được ưa chuộng trong những khuôn viên học đường.
Cũng có lẽ vì vậy mà phượng vỹ thường hay được trồng trong những công viên, dọc theo hai bên đường phố hầu tạo được bóng mát trên đường, và làm cảnh đẹp mỗi mùa phượng nở. Có lẽ vì vẻ đẹp của hoa phượng khá rực rỡ, lại rất lạc quan, nên mỗi năm vào tháng sáu, miền nam Florida thường tổ chức hội hoa Phượng Vỹ (Royal Poinciana Fiesta) để cùng thưởng hoa, như người Nhật thường có hội hoa Sakura chăng?
Chỉ biết, hàng năm, tại quê nhà, mỗi mùa phượng vỹ nở rộ, là mỗi người trong chúng ta lại nao nao nhớ về một mùa phượng vỹ riêng của chính mình. Cũng có lẽ vì vẻ đẹp của phượng vỹ mà biết bao người, từ Âu đến Á, đã viết biết bao nhiêu mẩu truyện, làm biết bao nhiêu bài thơ, họa bao bức tranh, và nhất là phối âm bao nhiêu bản nhạc riêng cho phượng vỹ, ví dụ như bản “Poinciana”, và có phải vì thế, bao tâm hồn thi sĩ bắt đầu biết nhớ, và biết mong “Sớm Nở Phượng Yêu”.
Mùa hạ gắn liền với những ngày nắng gắt, với tiếng chim tu hú kêu, tiếng hát ve sầu trên những kẽ lá. Với học sinh, mùa hạ đến cũng là lúc năm học kết thúc, mở ra kỳ nghỉ hè. Đặc biệt, không thể không nhắc đến cây phượng được mệnh danh là cây báo hiệu mùa hạ của học sinh.
Cây phượng không phải là loài cây sinh trưởng ban đầu tại Việt Nam mà nó có nguồn gốc từ Madagascar, ở cánh rừng miền Tây Malagasy và mới được du nhập về nước mình vào cuối thế kỷ XIX ở các tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, đặc biệt được trồng nhiều tại Hải Phòng. Tuy vậy, cây phượng gắn liền với một sự tích trong dân gian, kể rằng gia đình thầy dạy võ có 5 người con văn võ song toàn. Đến khi có giặc xâm lăng, cả sáu người cùng tham trận. Không may, khi giặc yêu cầu mang nong thức ăn sang trại giặc, người bố bị ốm nhưng vẫn cố gắng mang năm nong có năm người con giấu kỹ bên trong. Khi đến trại dịch, năm người con thần tốc đánh bại địch song thầy dạy võ không đợi được ngày tháng, qua đời. Năm người con mặc áo đỏ trồng năm cây quanh mộ cha. Thời gian trôi khi cả năm người con đều không còn, năm cây này nở thành những đóa hoa năm cánh, đỏ tươi.
Về đặc điểm, cây phượng là loại cây thân gỗ, tán rộng, hai lá mầm, rễ cọc. Thân cây phượng to, rộng vừa đủ một vòng tay người trưởng thành, thân sần sùi, có thể đạt tới chiều cao 10 – 15m nhưng hầu hết phượng ở nước ta chỉ cao tầm 4 – 5 m. Loại cây này thường có vòng đời ngắn, khoảng 25 – 30 năm. Cành cây dài khẳng khiu, vươn ra tứ phía, thường mọc lá nhỏ vào mùa thu đông, đông xuân. Đến mùa hạ, cây có hoa phượng 5 cánh, màu đỏ tươi, nhị vàng nhạt, trong đó một cánh dài nhỉnh hơn, mọc thẳng. Bốn cánh còn lại có xu hướng vươn ra ngoài. Quả cây phượng mang màu nâu sẫm, dạng dẹp và chỉ dài 5 cm, bên trong có các hạt nằm riêng rẽ nhau.
Để gieo trồng cây phượng, người ta mua hạt giống và gieo trồng trên những vùng đất ẩm, nhiệt độ bình thường. Khoảng một, hai tuần hạt giống phát triển cây con, rể ngày càng mọc dài hơn. Tùy vào mức độ chăm sóc, dinh dưỡng cung cấp cho cây mà thời gian phát triển thành cây con có thể khác nhau. Song các cây phượng thường phát triển đến khoảng 4 – 5 m hoặc có thể lên đến 10 – 15m. Cây thường ra tán lá xanh và chỉ đến khoảng tháng 4 mới đến mùa cây ra hoa, hoa phượng gồm 5 cánh, màu đỏ rực, nhị màu vàng tươi, tỏa hương thơm ngát. Sau mùa ra hoa là mùa kết quả, những hoa phượng biến mất thay vào đó là quả nâu sẫm, dài khoảng 5cm, một quả có nhiều hạt, các hạt ở riêng rẽ nhau. Quả phượng ăn được, có vị chát chát đầu lưỡi, vị ngọt bùi trong miệng.
Cây phượng thuận lợi phát triển trên các vùng đất có khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, ở những vùng có khí hậu khô hạn cây thường trơ trụi, ra hoa phượng nhỏ, màu vàng nhạt. Để cây luôn tươi tốt, bạn nên biết những cách chăm sóc, nuôi trồng cây như tưới nước, bảo vệ cây non,…. Khi cây non mới mọc, phần thân không chắc chắn, bạn cần cắm giàn, cọc để hướng cây mọc thẳng đứng. Giai đoạn này rất cần nước, độ ẩm nên bạn hạn chế ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp vào cây. Việc tưới nước cho cây non, nhỏ nên duy trì 2 lần/ tuần, còn cây phượng trưởng thành chỉ cần tưới 2 ngày/ lần.
Có thể nói, cây phượng mang lại nhiều giá trị đặc biệt, ý nghĩa với con người, với xã hội. Cây được trồng tại các nơi công cộng, công viên, vỉa hè, trường học để tạo bóng mát vào những ngày nắng gắt mùa hạ thu, khi cây ra hoa là lúc cây phượng rực rỡ nhất, thu hút nhiều du khách đến thăm, ngắm nhìn cảnh đẹp. Với học sinh, cây phượng là người bạn đồng hành suốt những năm tháng học tập dưới mái trường, chơi đùa và học tập dưới tán cây. Những con điểm tốt được ví như những bông hoa phượng trên trang giấy
Như vậy, cây phượng đóng một vai trò quan trọng với học sinh nói chung, xã hội nói riêng dù trải qua bao năm tháng, bao thập kỷ đã trôi qua. Vì thế hãy chăm sóc, nâng niu từng bước phát triển, sinh trưởng của cây phượng để chúng luôn nở đỏ sân trường mỗi khi mùa hạ về.
Mỗi loài cây, mỗi loài hoa sinh ra trên đời đều mang một ý nghĩa và biểu tượng riêng. Nếu cây phát lộc biểu tượng cho sự may mắn, cây liễu là chuẩn mực cho vẻ đẹp yêu kiều của người phụ nữ, cây tùng thể hiện khí chất hiên ngang, ngay thẳng của người quân tử thì cây phượng vĩ – loài cây hết sức giản dị và thân thuộc lại là biểu tượng của tuổi học trò, là sự báo hiệu cho một mùa chia tay đầy thương nhớ. Cây phượng vĩ đã trở thành một người bạn thân thiết của tuổi học trò.
Ngay từ cái tên phượng vĩ đã gieo vào lòng người nhiều bí ẩn. Đó là chữ ghép Hán Việt, có nghĩa là đuôi con chim phượng. Cách gọi này cũng khá hợp lí và tinh tế bởi các lá cây đặc biệt là các lá non trông giống như hình vẽ đuôi của loài chim phượng. Phượng vĩ còn có tên gọi khác là xoan tây hay điệp tây, thuộc loại thực vật có hoa, thường sinh sống ở vùng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới.
Theo các nghiên cứu thì phượng vĩ có nguồn gốc từ những cánh rừng ở Madagascar. Còn ở Việt Nam, phượng vĩ được du nhập vào khoảng cuối thế kỉ XIX bởi một người Pháp. Khi ấy, loài cây này thường xuất hiện ở các tỉnh thành như Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn.
Ở Việt Nam, phượng vĩ được trồng khá phổ biến, đặc biệt là ở dọc các con đường, ở trong sân trường học bởi khả năng tạo bóng mát của cây. Đây là loại cây dễ trồng, thích hợp với mọi loại đất từ khô cằn đến màu mỡ; phát triển tốt trên mọi địa hình từ đồng bằng đến trung du và núi cao. Tuy nhiên, loài cây này lại có tuổi thọ không cao, trung bình từ 30 đến 50 năm tùy vào điều kiện chăm sóc và thời tiết.
Một cây phượng vĩ lớn có thể cao đến 20m, tán tỏa ra tứ phía với đường kính lên tới 8m. Rễ cây thuộc loại rễ chùm, đâm sâu xuống lòng đất hút chất dinh dưỡng nuôi cây đồng thời bám sâu vào lòng đất để cây luôn đứng vững trước những bão tố dữ dội. Những chiếc rễ cây lâu năm to như những con rắn khổng lồ.
Mỗi bông hoa có bốn cánh tỏa rộng màu đỏ hay màu đỏ cam, cánh thứ năm mọc thẳng và lớn hơn các cánh hoa còn lại một chút. Cánh hoa cuối cùng này khá đặc biệt, có lấm tấm những đốm màu vàng, màu trắng. Hoa phượng không mọc riêng lẻ mà kết thành từng chùm từ năm đến tám bông hoa.
Advertisement
Khi nắng ngày càng chói chang và ve cất tiếng râm ran cũng là lúc phượng nở. Mới ngày nào còn e lệ, chúm chím, điểm vài sắc đỏ giữa màu xanh bát ngát thì hôm nay đã bật tung ra, đỏ rực cả một khoảng trời. Phượng nở lại báo hiệu một mùa chia tay sắp đến, gieo vào lòng người những bồi hồi, xao xuyến; những tiếc nuối, nhớ nhung.
Trong đời sống, cây phượng vĩ giữ một vai trò quan trọng và thiết yếu. Cây tạo bóng mát vào những ngày hè oi ả, làm dịu đi cái nắng cháy da cháy thịt kia. Dưới bóng phượng là nơi vui chơi của các cô cậu học trò. Cây phượng đứng đó, sừng sững giữa một góc sân tưởng như chẳng hề đổi thay mà đã chứng kiến bao kỉ niệm, bao cảm xúc chẳng thể có lại lần thứ hai. Đó là vòng tay ấm áp dang rộng khi ngày đầu tiên ta đi học, là ánh mắt luyến tiếc, là lời nhắn gửi tâm tình ngày ta ra trường. Cứ thế, cứ thế thầm lặng và giản đơn, cây phượng vĩ đã ghi dấu những chặng đường thời học sinh.
Cây phượng vĩ không biết tự bao giờ đã chất chứa những giá trị tinh thần to lớn. Có cả một thành phố được mệnh danh là “thành phố hoa phượng đỏ”- Hải Phòng bởi nơi đây vào mùa hạ luôn rực đỏ trong sắc phượng. Hay bài thơ “Thời hoa đỏ” của nhà thơ Thanh Tùng đã được nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc khi hồi tưởng lại những kỉ niệm tuổi trẻ gắn với màu đỏ phượng vĩ.
Một loài cây tưởng như bình thường nhưng lại có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống con người. Ngày nay khi đất nước đang vươn mình đứng dậy, hội nhập cùng thế giới với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì mỗi chúng ta càng cần giữ gìn và tích cực trồng phượng vĩ nhiều hơn để tạo một không gian xanh sạch đẹp.
Trong cuộc đời mỗi con người thì quãng đời học sinh là khoảng thời gian rực rỡ nhất và đẹp đẽ nhất trong cuộc đời mỗi con người. Thời học sinh gắn liền với những trang lưu bút, những bộ đồng phục, chiếc áo dài trắng tinh khôi và đặc biệt là một loại cây, loại cây mà không thể nào thiếu, không thể nào không nhắc đến khi nói đến năm tháng thời học sinh đó là cây phượng.
Phượng là loại cây có từ lâu, phượng có nguồn gốc từ Madagasca. Đến tận cuối thế kỉ XIX thì phượng được du nhập vào các thành phố lớn ở Việt Nam như Hải Phòng, Đà Nẵng. Và cũng chính vì vậy mà ngày nay Hải Phòng được mệnh danh là thành phố hoa phượng đỏ Bởi vậy mà cứ đến dịp hè khi phượng ra hoa thì Hải Phòng lại được đón một lượng du khách lớn đến để ngắm sắc đỏ rực rỡ trên khắp các con phố ở Hải Phòng.
Phượng, ngoài cái tên này ra thì cây này có rất nhiều tên gọi khác nhau như phượng vĩ, xoan tây, điệp tây hoặc hoa nắng. Tên tiếng anh của nó còn được gọi là Mohur tree, bởi phượng được trồng rất nhiều nơi trên thế giới nên mỗi vùng miền nó lại được gọi bằng một cái tên khác nhau. Phượng là cây thuộc họ fabaceae và phượng sinh sống ở những vùng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới bởi vậy nên phượng mới thích nghi với điều kiện nóng ẩm ở Việt Nam.
Phượng thường không cao như những loài cây cổ thụ khác. Cao nhất cũng chỉ khoảng 20m. Phượng có tán rộng nên gốc phượng thường là nơi trú cái nắng hè oi ả của các bạn học sinh. Phượng là loại cây thân gỗ. Thân cây nhỏ không có kích thước quá to. Thân phượng màu nâu sẫm bao bọc bên ngoài là lớp vỏ xù xì gai góc.
Lá phượng đặc biệt, không giống với những chiếc lá cây khác. Mà lá phượng nhỏ xíu, lấm chấm li ti mọc đối xứng qua một xương lá tạo thành những chiếc lá canpo, những chiếc lá nhỏ ấy lại được gắn đối xứng nhau qua một chiếc xương lớn tạo thành một chiếc lá hoàn chỉnh .Chính vì cấu trúc đặc biệt như vậy nên lá phượng thưa thớt chứ không đặc kín như lá bàng, lá bằng lăng.
Lá phượng thuộc họ lá kép lông chim, lá thường có màu xanh lục. Đặc biệt vào mùa khô lá cây thường xuyên vàng và lá bắt đầu rụng vào khoảng thời gian này. Phượng có tán rộng dài, vươn xa. Mỗi cành lớn thường có nhiều nhánh nhỏ đan xen chi chít khiến cây phượng có hình dáng như những chiếc ô khổng lồ xanh mướt tỏa bóng râm mát tránh cái nắng gắt, oi ả của ngày hè.
Cây phượng có rễ to, thuộc loại rễ cọc. Là rễ cọc nên nó đâm sâu xuống đất hút chất dinh dưỡng nuôi cây. Có một số cây phượng có phần rễ nổi trên mặt đất, đó là những chiếc dễ dài, ngoằn ngoèo và có kích thước tùy theo độ tuổi của cây. Nhờ có những chiếc rễ to, khỏe hút chất dinh dưỡng nuôi cây mà đến dịp hè cây mới bung hoa khoe sắc.
Hoa phượng thường có màu đỏ thẫm hoặc đỏ tươi. Hoa phượng có năm cánh trong đó có một cánh gọi là cánh lớn. Cánh lớn có đặc điểm hình dáng khác so với bốn cánh còn lại. Cánh lớn có màu đỏ, mọc chính giữa trên lá có lốm đốm màu vàng. Màu đỏ của hoa là màu của nắng của gió là màu đỏ của cái nắng gay gắt của mùa hè oi ả. Tuy bông hoa phượng ấy mang sắc đỏ gay gắt nhưng khi nó hòa quyện với màu xanh của lá, vàng của nắng, màu xanh trong trẻo của của bầu trời mùa hè thì lại tạo nên một bức tranh thật tuyệt đẹp.
Quả phượng dài, dẹp màu đen, bên trong có nhiều hạt rất cứng . Ở Việt Nam thì quả phượng chưa có nhiều lợi ích trong cuộc sống nhưng ở Caribe thì họ đã biết sử dụng những quả phượng để làm nên bộ gõ để sử dụng trong âm nhạc. Phượng có tuổi đời không cao chỉ tầm khoảng 20-30 năm tuổi. Nhưng phượng lại có thể tái sinh rất dễ dàng, có thể trồng bằng chồi hoặc hạt và phát triển rất nhanh trên mọi địa hình và đất trồng.
Bên cạnh lợi ích của hầu hết mọi cây là tạo bóng râm che mát và làm đẹp cho con phố phường, trường học thì nó còn là cây gợi nhắc cho chúng ta về những kỉ niệm tuổi thơ, thời cắp sách tới trường. Mỗi khi hè tới, tiếng ve bắt đầu râm ran trên các vòm cây thì phượng cũng bắt đầu ra hoa. Phượng nở cũng là lúc lũ học sinh háo hức được nghỉ hè, cũng là lúc tụi học sinh khóc nức nở vì sắp phải chia xa, phượng nở đem bao niềm vui nỗi buồn của học sinh.
Phượng là loại cây vừa hữu ích, vừa làm đẹp cho đời. Bởi những lợi ích của nó là một người dân chúng ta cần có ý thức giữ gìn và chăm sóc cây để có thể khoe sắc cho đời.
Chắc hẳn ai đã từng đi qua tuổi học trò đều thấy nhớ, thấy thương một thời áo trắng mộng mơ, ngây thơ mà trong sáng. Tuổi học trò gắn liền với biết bao nhiêu kỉ niệm, nhưng có lẽ kỉ niệm bên những gốc phượng có thể sẽ không bao giờ quên. Mỗi khi tiếng ve râm ran trong các vòm lá, khi ánh nắng như rót vàng rót mật xuống trần gian thì cũng là lúc hè về, phượng nở. Phượng nở mang theo hoài niệm, nỗi nhớ thương vơi đầy, là người bạn đồng hành trong suốt quãng đời học sinh. Có lẽ vì thế mà người ta gọi phượng với một cái tên âu yếm “cây học trò”.
Phượng là loài cây thân gỗ. Rễ phượng thuộc loại rễ cọc, cắm sâu xuống lòng đất để hút chất dinh dưỡng, một vài rễ to trồi cả lên mặt đất, trông như những con rắn bò ngoằn ngoèo. Thân phượng rất cao, từ 6 – 12 mét. Cây bé thì chiều ngang bằng một vòng tay người lớn, còn cây to thì hai người ôm mới xuể. Thân cây màu nâu sẫm đầy những vết sần, cục u nhuốm màu thời gian. Từ thân mọc ra nhiều cành to và nhỏ như những cánh tay vươn ra tứ phía để đón ánh nắng mặt trời. Lá cây là loại lá kép, màu xanh cốm, mỏng và nhỏ như lá me, mọc đối xứng nhau. Tán cây cao và rộng, trông ra như những chiếc ô khổng lồ. Vì thế phượng được trồng nhiều ở trên đường, trong công viên sân trường vừa để làm đẹp, vừa cho bóng mát. Hoa phượng có năm cánh to, mỏng, mịn như nhung, màu đỏ thắm hoặc đỏ cam. Cánh hoa thứ năm mọc thẳng, cánh hoa này lớn hơn một chút so với bốn cánh kia và lốm đốm màu trắng/vàng hoặc cam/vàng (cũng có khi trắng/đỏ). Phượng nở rực rỡ nhất vào tháng Sáu. Hoa phượng mọc thành từng chùm to, mỗi cành lại có nhiều chùm như thế, trông xa như những đốm lửa khổng lồ. Ở giữa hoa là nhuỵ hoa có hình bầu dục, dài và cong. Tụi học trò thường lấy nhụy hoa để chơi chọi gà vào những giờ ra chơi. Những cô bạn gái dịu dàng còn lấy cánh hoa phượng ép trong cuốn nhật ký để lưu giữ những kỷ niệm, hoặc là:
(Phượng hồng) Hết mùa phượng nở, quả phượng bắt đầu phát triển. Quả là loại quả đậu có màu nâu sẫm khi chín, dài tới 60 cm và rộng khoảng 5cm. Bên trong là hạt phượng có thể rang lên để ăn hoặc làm củi đốt.
Ở Việt Nam, phượng được trồng ở những thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Đà Nẵng. Ở Hà Nội, ven Hồ Tây có “con đường hoa phượng” vì có mấy trăm cây phượng được trồng hai bên đường, đem đến vẻ đẹp rực rỡ cho thủ đô mỗi khi hè về. Còn Hải Phòng được mệnh danh là “thành phố hoa phượng đỏ”.
Cây phượng từ xưa đến nay đã trở thành nguồn cảm hứng cho biết bao nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ sáng tác:
(Phượng hồng – Quốc Phương)
Hay
(Giữ hạ – Quốc Phương) Nhà thơ Thanh Tùng có bài thơ “Thời hoa đỏ” đã được nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc thành bài hát cùng tên, viết về những kỷ niệm của tuổi trẻ với mùa hoa phượng vĩ, tản văn “Hoa học trò” của Xuân Diệu. Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã lấy sắc đỏ của hoa phượng để đặt tên cho tập truyện ngắn “Hạ đỏ” của mình. Không phải nghiễm nhiên mà hoa phượng được mệnh danh là “hoa học trò”. Không phải là sắc tím biếc thủy chung và nhanh tàn như hoa bằng lăng, hoa phượng rực rỡ suốt mùa hè, suốt một mùa thi, chở cả bao hoài niệm, ước mơ của tuổi học trò. Mỗi khi nhìn thấy hoa phượng đơm bông, học trò cuối cấp lại rưng rưng nỗi nhớ, trào dâng nỗi xúc động xốn xang:
“Hoa phượng đỏ sân trường như muốn nói
Mùa chia ly đỏ chói giấc mơ đầu” Ngày tổng kết, ai cũng đội trên đầu mình được vòng được kết từ hoa phượng nhưng ý nghĩa vô cùng. Cây phượng đứng ở giữa sân trường như bác bảo vệ già ngày ngày che mát cho sân trường, cho lũ học trò vui đùa thỏa thích
“Hoa học trò” cứ thế khẳng định vị trí của mình trong đời sống học trò nói riêng và con người nói chung. Sắc đỏ rực rỡ đã làm say đắm bao tâm hồn nhiều thế hệ. Nếu ai đã từng đi qua quãng đời học trò chắc hẳn đều ghi nhớ những kỉ niệm gắn với cây phượng thân yêu.
Trong những năm tháng học trò của chúng ta, ai một lần chẳng đứng dưới gốc phượng mà ngắm nhìn xao xuyến mỗi mùa hè về để rồi phải thốt lên: “Vậy là một năm học lại sắp kết thúc.” Cây phượng vĩ một trời đỏ rực cứ vậy đi vào tiềm thức, đi vào tuổi thơ của lũ học trò nhỏ và trở thành một buổi tượng của tuổi học trò hồn nhiên.
“Phượng vĩ’ là một chữ ghép Hán Việt, có nghĩa là đuôi con chim phượng. Có lẽ cái tên này bắt nguồn từ bông hoa của cây có màu và hình dáng giống con chim phượng. Phượng vĩ có nguồn gốc từ những cánh rừng ngự tại Madagascar. Người ta nói rằng phượng vĩ du nhập vào Việt Nam khoảng cuối thế kỷ XIX bởi một người Pháp. Đối với khí hậu nhiệt đới, cây phượng phát triển tốt, bởi vậy mà ta có thể thấy hình ảnh những hàng phượng vĩ quen thuộc ở dọc những vỉa hè con phố lớn hoặc ở trong sân trường tại Việt Nam.
Phượng là loại cây thân gỗ. Một cây phượng thông thường có chiều cao khoảng từ 6-12 mét. Thân cây phượng vĩ khá to một người ôm không xuể. Rễ cây thuộc loại rễ chùm, đâm sâu xuống mặt đất để hút chất dinh dưỡng nuôi cây. Một vài chiếc rễ nổi hẳn lên trên mặt đất, ngoằn ngoèo như những con rắn khổng lồ. Vỏ cây màu nâu sẫm, sần sùi với những cục u to như chiếc bát úp. Lá cây thuộc loại lá kép, màu xanh cốm, mỏng và nhỏ như lá me, mọc đối xứng với nhau như xương cá. Thỉnh thoảng có làn gió nhẹ thổi qua thì những chiếc lá đu đưa rung rinh trong nắng như những chiếc quạt phe phẩy trong không gian. Từ thân cây mọc ra nhiều cành to và nhỏ như những cánh tay vươn ra đón lấy ánh nắng mặt trời tạo thành từng tán khổng lồ tỏa bóng râm xuống một khoảng rộng trên mặt đất. Đặc biệt, cây phượng đi vào lòng người bởi những chùm hoa phượng đỏ rực như những đốm lửa rực rỡ mỗi mùa hè về. Hoa phượng có năm cánh to, mỏng, sờ vào mịn như nhung. Riêng cánh thứ năm mọc thẳng và lớn hơn các cánh còn lại một chút. Cánh hoa cuối cùng có những đốm màu trắng, màu vàng trông khá lạ mắt.Hoa phượng khoác lên mình lớp áo đỏ thắm hoặc đỏ cam như được nhuộm bởi ánh nắng hè gay gắt. Phượng không nở riêng lẻ từng bông mà nở thành từng chùm từ năm đến tám bông. Bởi vậy, mỗi khi tiếng ve kêu râm ran báo hiệu mùa hè trở về thì cũng là lúc cả cây phượng rực một sắc đỏ, nhìn từ xa như một mâm xôi gấc khổng lồ. Hoa phượng rụng cũng là lúc quả phượng bắt đầu phát triển. Quả phượng màu nâu sẫm khi chín, cong cong như lưỡi liềm, có khi dài tới tận 60cm và rộng khoảng 5cm. Tách lớp vỏ bên ngoài ra, bên trong là hạt phượng có thể rang lên để ăn hoặc để làm củi đốt.
Phượng thường trồng để lấy bóng râm cũng như để làm đẹp thêm cho quang cảnh ở hai bên đường phố hay trên sân trường. Cây phượng vĩ gắn bó với học sinh trong suốt những năm tháng cắp sách tới trường. Cứ mỗi giờ ra chơi, từng tốp học sinh lai ngồi dưới gốc phượng râm mát chơi đùa, trò chuyện vui vẻ. Lũ học trò thường nhặt những bông hoa phượng rụng để chơi chọi gà. Tiếng cười, tiếng nói rôm rả cả một góc sân. Vỏ và rễ cây phượng còn dùng để làm thuốc hạ nhiệt, chống sốt còn thân cây có thể dùng để lấy gỗ. Hình ảnh cây phượng còn là cảm hứng đi vào trong thi ca, âm nhạc. Xuân Diệu từng có tản văn “Hoa học trò”, nhà thơ Thanh Tùng lại có tác phẩm “Thời hoa đỏ” và còn biết bao những bài hát du dương mà sâu lắng cất lên với hình ảnh hoa phượng vĩ đỏ thắm:
Cứ mỗi khi hạ về, phượng vĩ nở lại báo hiệu một mùa chia tay sắp đến. Phượng vĩ sẽ mãi trở thành một biểu tượng khó phai trong lòng người, gợi nhớ gợi thương về một thời học trò vui tươi với biết bao ước mơ, hoài bão.
Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Chiếc Bánh Chưng Ngày Tết 2 Dàn Ý &Amp; 25 Bài Văn Thuyết Minh Lớp 8
Thuyết minh về chiếc bánh chưng ngày Tết
Dàn ý thuyết minh về chiếc bánh chưng (2 mẫu)
Thuyết minh bánh chưng ngày Tết
Thuyết minh về bánh chưng ngắn gọn (11 mẫu)
Thuyết minh về bánh chưng đầy đủ (8 mẫu)
Thuyết minh về cách làm bánh chưng (4 mẫu)
Thuyết minh về phong tục gói bánh chưng ngày Tết
Dàn ý thuyết minh về chiếc bánh chưng1. Mở bài
Giới thiệu chung về đối tượng thuyết minh: bánh chưng.
2. Thân bài
a. Nguồn gốc và hình dáng, đặc điểm của bánh chưng
Nguồn gốc: gắn liền với câu chuyện “Bánh chưng bánh giầy” và nhân vật hoàng tử Lang Liêu.
Hình dáng, đặc điểm: vuông vức.
b. Nguyên liệu để làm bánh chưng
Nguyên liệu bên ngoài: lá dong hoặc lá chuối.
Nguyên liệu bên trong: nếp, đậu xanh, thịt mỡ.
c. Cách thức làm bánh
Gói bánh
Nấu bánh
Thưởng thức bánh
d. Ý nghĩa của bánh chưng
Là một món ăn tiêu biểu tượng trưng cho ngày Tết.
Ẩn dụ cho ý niệm cho mong ước về cuộc sống ấm no.
Đề cao thành tựu nông nghiệp cùng nền văn minh lúa nước.
3. Kết bài
Khẳng định lại ý nghĩa và tác dụng của bánh chưng trong đời sống tinh thần, tâm thức của người Việt.
Thuyết minh bánh chưng ngày TếtBánh chưng là biểu tượng không thể thiếu trong ngày Tết cổ truyền. Từ xa xưa, cứ mỗi dịp Tết đến xuân về, người người nhà nhà lại chuẩn bị những nồi bánh chưng rất lớn để đón Tết. Bởi trong suy nghĩ của mỗi người, bánh chưng là món ăn mang ý nghĩa sum họp, sum họp giản dị mà đầm ấm.
Người xưa vẫn cho rằng, bánh chưng ngày Tết có từ rất lâu đời. Người ta vẫn tin rằng bánh chưng, bánh giầy có từ thời Hùng Vương thứ 6 và cho đến ngày nay nó đã trở thành biểu tượng của Tết cổ truyền Việt Nam. Người ta luôn quan niệm rằng, bánh chưng chứng tỏ sự đủ đầy của đất trời và sự sum họp của gia đình sau một năm làm việc tất bật, vội vã. Dù ở miền Bắc, miền Trung hay miền Nam, bánh chưng là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết. Có thể nói đây là món ăn được chờ đợi nhất, bởi Tết là ngày được thưởng thức những chiếc bánh chưng thơm ngon và ấm áp nhất.
Về nguyên liệu, bánh chưng được làm từ những thứ rất đơn giản và dễ chuẩn bị; kết hợp với bàn tay khéo léo của người gói bánh. Nguyên liệu chính là gạo nếp, lá dong, thịt và đậu xanh giã nhỏ. Mỗi nguyên liệu đều được lựa chọn cẩn thận để có thể tạo ra món ăn thơm ngon nhất. Còn gạo nếp, người ta chọn những hạt tròn mẩy, không mốc để khi nấu dậy mùi thơm dẻo của gạo nếp. Đậu xanh chọn loại đậu có màu vàng đẹp mắt, đồ chín mềm rồi giã nhỏ làm nhân bánh. Người ta sẽ chọn thịt ba chỉ hoặc thịt nạc dăm, trộn với tiêu xay, hành tím băm nhuyễn. Một nguyên liệu không kém phần quan trọng khác là lá dong để gói bánh. Ở một số vùng khác, người ta dùng lá chuối để gói bánh nhưng phổ biến nhất vẫn là lá dong.
Lá phải có màu xanh đậm, gân khỏe, không bị héo, rách. Hoặc nếu lá bị rách có thể lót mặt trong của lá lành để gói. Việc rửa lá dong và cắt bỏ cuống cũng rất quan trọng vì lá dong sạch vừa đảm bảo vệ sinh, vừa tạo mùi thơm sau khi nấu bánh.
Sau khi chuẩn bị đầy đủ các nguyên liệu là đến công đoạn gói bánh. Gói bánh chưng cần sự cần mẫn, tỉ mỉ và khéo léo để tạo nên chiếc bánh vuông vắn dâng cúng ông bà tổ tiên. Nhiều người cần khuôn vuông để gói nhưng cũng nhiều người không, chỉ cần gập bốn góc của lá dong là có thể gói được. Bao quanh nhân đậu và thịt là một lớp xôi dày. Chuẩn bị dây để bọc, giữ cho ruột bánh săn chắc, không bị nhão trong quá trình nấu.
Nướng bánh được coi là một công đoạn quan trọng. Thông thường người ta nấu bánh bằng củi khô, nấu trong nồi to, đổ ngập nước và nấu trong khoảng 8-12 tiếng. Thời gian nấu lâu như vậy để đảm bảo bánh chín đều và mềm. Khi nước bánh sôi, mùi bánh chưng bốc lên nghi ngút. Khi đó, mọi người bắt đầu cảm nhận được không khí Tết bao trùm khắp nhà.
Bánh chưng sau khi chín được mang ra và lăn qua lăn lại để tạo độ chắc cho bánh khi cắt ra đĩa và để được lâu hơn.
Mâm cơm ngày Tết không thể thiếu đĩa bánh chưng. Cũng giống như trên bàn thờ ngày Tết, đôi bánh chưng để dâng lên ông bà tổ tiên là phong tục được lưu truyền từ bao đời nay. Bánh chưng tượng trưng cho sự hoàn hảo của đất trời, cho những gì nhân hậu nhất, ấm áp nhất của lòng người.
Ngày Tết, nhiều người hay tặng bánh chưng làm quà, đây là món quà ý nghĩa tượng trưng cho sự chân thành, gửi gắm lời chúc trọn vẹn nhất.
Mỗi dịp Tết đến xuân về, bánh chưng bánh chưng là biểu hiện cho sự ấm áp của gia đình. Bánh chưng là biểu tượng của ngày Tết mà không một loại bánh nào khác có thể thay thế được. Vì đây là truyền thống, là nét đẹp của người Việt Nam, cần được giữ gìn và trân trọng từ xưa, hôm nay và cả mai sau.
Thuyết minh về bánh chưng ngắn gọn Bài làm mẫu 1Bánh chưng là một trong những món ăn không thể thiếu trong mỗi gia đình Việt Nam mỗi dịp Tết đến xuân về. Từ bao đời nay, bánh chưng đã như một món ăn gắn bó, sum vầy, mang đậm hương vị Tết cổ truyền dân tộc.
Truyện xưa kể rằng, từ đời Hùng Vương thứ 6, hoàng tử Lang liêu đã được vua cha lựa chọn để truyền ngôi với món bánh chưng, một thức bánh làm từ lúa gạo, do chính con người làm ra. Bánh chưng thường đi liền với bánh dày, nếu như bánh dày hình tròn, tượng trưng cho trời thì bánh chưng lại hình tượng trưng cho đất, con người luôn phải biết ơn mảnh đất đã sinh ra và nuôi sống chúng ta. Bánh chưng bao gồm những nguyên liệu rất đơn giản: Lá dong dùng để gói bánh, gạo nếp làm vỏ bánh và đỗ xanh, thịt lợn, hành làm nhân bánh. Để chuẩn bị gói bánh chưng, ta phải chuẩn bị những lá dong với nhiều kích cỡ, rửa sạch. Gạo nếp và đỗ xanh phải được ngâm sẵn, thịt lợn thái miếng và hành thái lát mỏng. Sau đó đến công đoạn gói bánh chưng. Ngày trước ông bà ta gói bánh chưng thuần túy bằng tay, nhưng bây giờ thường có khuôn để gói bánh được vuông vắn và dễ dàng hơn. Đầu tiên là đặt hai chiếc lạt biên dưới khuôn, sau đó xếp một lớp lá dong vuông vắn lên bốn mép khuôn. Tiếp theo là một lớp gạo nếp. Sau khi đã đổ gạo nếp lần thứ nhất, ta sẽ cho nhân bánh chưng gồm có đỗ, thịt và hành vào, xan đều ra giữa bánh rồi lại đổ thêm một lớp gạo nếp nữa. Cuối cùng là gói bánh lại và dùng lạt để cố định bánh cho chắc chắn. Khi gói bánh ta không nên xê dịch để tránh bị góc lệch. Những chiếc bánh chưng được coi là đạt tiêu chuẩn khi phần gạo và nhân bánh được nằm vuông vắn trong lớp lá, khi gói bánh chưng, không được cho lớp lá quá mỏng hay rách bởi nếu vậy khi luộc ruột bánh sẽ bị bung ra ngoài. Sau khi gói xong bánh chưng, ta cần chuẩn bị một nồi lớn để luộc bánh, thường thì sẽ luộc bánh chưng bằng bếp củi vì mất khá nhiều thời gian, xếp lần lượt bánh chưng vào nồi sau đó đổ nước vào, để lửa cháy âm ỉ trong khoảng 6-10 tiếng. Bánh chưng cần luộc lâu để chín đều và mềm thơm. Sau khi luộc xong bánh chưng cần được ép cho vuông vắn. Lúc ấy một chiếc bánh chưng mới hoàn chỉnh.
Bánh chưng thường được dùng để cúng ông bà tổ tiên, mang làm quà biếu tặng mỗi dịp Tết đến xuân về, vừa gần gũi lại vừa lịch sự. Bóc bánh chưng, màu bánh phải xanh màu lá dong, gạo phải mềm và chín tới mới ngon. Bánh chưng không cắt bằng dao mà dùng chính lạt gói bánh để cắt rất dễ dàng. Lớp vỏ bánh dính chặt và thơm mùi gạo nếp, mùi lá dong, đỗ bở tới, quyện với thịt lợn và hành tươi tạo nên một hương vị độc đáo và riêng biệt. Bánh chưng thường được ăn kèm với hành muối và dưa món,… Những chiếc bánh chưng trong mâm cơm ngày Tết vừa là món ăn thân thuộc vừa là mong chờ và niềm chúc cho những điều tốt đẹp trong năm mới sẽ đến với mỗi gia đình.
Cho dù xã hội có phát triển đến đâu, những món ăn mới và ngon như thế nào có ra đời, vị trí của bánh chưng trong mỗi dịp lễ trọng đại của dân tộc vẫn không thể thay thế. Món bánh chưng mộc mạc giản dị mà đầy ý nghĩa, vừa là sự biết ơn với ông cha ta, vừa là nét đẹp văn hóa không thể phai mờ.
Bài làm mẫu 2Nếu như Hàn Quốc có kim chi và canh rong biển, Nhật Bản có cơm sushi thì Việt Nam lại nền nã y như nó vốn có với món bánh chưng truyền thống.
Mỗi loài hoa sẽ có một hương thơm riêng, mỗi dân tộc sẽ có một bản sắc văn hóa và phong tục tập quán đặc trưng không trộn lẫn. Một trong những yếu tố tạo nên Văn hóa bản sắc dân tộc là văn hóa ẩm thực. Vâng, và chúng ta đang nói đến dân tộc Việt Nam dịu dàng và duyên dáng với chiếc áo dài duyên dáng, dưới chiếc nón lá xinh xinh và du dương trong những câu quan họ ngọt ngào nồng đượm. Chắc có lẽ bởi thế mà bánh chưng- một món ăn giản dị đã trở thành món ăn truyền thống của dân tộc ta từ bao đời nay.
Truyền thuyết kể rằng, vào thời vua hùng thứ sáu, nhà vua đã già và muốn truyền ngôi cho con nhưng chưa biết chọn ai trong số những người con trai của mình. Bởi thế, vua Hùng bèn gọi các con lại và nói rằng nếu ai tìm được món ăn ngon nhất để cúng Tiên Vương thì sẽ được nối ngôi. Các Lang nghe vua cha nói vậy, bèn kẻ lên rừng, người xuống bể tìm của ngon vật lạ, sơn hào hải vị để mang về cúng Tiên vương. Người con thứ mười tám của nhà vua là Lang Liêu, mẹ chàng bị vua cha ghẻ lạnh đâm sinh bệnh rồi chết. Từ nhỏ, chàng đã sống ở ngoài cung vua, hòa nhịp với cuộc sống của nhân dân lao động. Chàng vốn tính tình thuần hậu, chí hiếu nhưng lực bất tòng tâm , không biết kiếm của ngon vật lạ ở đâu để dâng lễ Tiên Vương. Vào đêm trước ngày tế lễ, chàng nằm mộng thấy có người chỉ rằng:” Vật trong trời đất không có gì quý bằng gạo, là thức ăn nuôi sống con người. nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông tượng trưng cho trời đất. Lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột để tượng hình cha mẹ sinh thành”. Lang Liêu tỉnh giấc, bèn làm theo lời thần dặn làm bánh cúng Tiên Vương và được vua hùng truyền ngôi cho. Từ đó, bánh chưng trở thành một vật không thể thiếu trong mỗi dịp lễ tết trong dân gian Việt Nam.
Bánh chưng hình vuông, được gói bằng lá rong màu xanh rất đẹp mắt. Đó là một món ăn giản dị xuất phát từ một nền văn minh lúa nước. Nguyên liệu chính để làm bánh là gạo nếp, đỗ xanh, hành củ, hạt tiêu và thịt lợn. Gạo càng ngon thì bánh sẽ càng dẻo. Thịt lợn phải là thịt ba chỉ vừa nạc vừa mỡ. Thịt quá nạc bánh sẽ bị khô và ngược lại thịt quá mỡ sẽ khiến cho bánh ăn bị ngấy, mau chán Khi gói bánh, sau một lớp gạo lè đến một lớp đỗ, nhân là thịt lợn và hành được cho ở giữa rồi tiếp tục đến một lớp đỗ, rồi một lớp gạo. Lá dong là lá được dùng để gói bánh chưng vì có màu xanh rất đẹp và dịu, lại không làm mất đi hương vị của bánh. Khi gói phải gói thật kín, để khi luộc nước không thể vào trong, bánh mới ngon. Lạt phải buộc thật chặt, chắc nhưng phải khéo. Gói lỏng tay, bánh không ngon. Song nếu quá chắc, bánh cũng không ngon.
Độc đáo nhất là, bánh chưng được nấu trong thời gian dài, 8-10 tiếng đồng hồ. phải để lửa vừa phải, không to quá và cũng không bé quá. Tuy gọi là luộc bánh chưng nhưng nước không trực tiếp tiếp xúc với nguyên liệu được luộc (gạo nếp, đỗ, thịt lợn,…) nên là hình thức hấp hay chưng giúp giữa nguyên được vị ngon của gạo đỗ và thịt. Chắc có lẽ vì cách chế biến ấy mà người ta mới gọi thứ món ăn bổ dưỡng ấy là bánh chưng. Thời gian luộc bánh lâu nên các hạt gạo mềm ra như quyện vào nhau, không giống như khi đồ xôi. Khi hạt gạo nhừ mà quyện vào nhau như thế người ta gọi là bánh chưng “rề”, tức là bánh chưng đó đã đạt đến độ quyện dẻo như ý, là bánh ngon. Cũng nhờ đặc điểm thời gian làm chín bánh lâu, lại trong nước sôi nên nhân bánh là đỗ hay thịt có đủ thời gian để nhừ ra, hòa quyện đan cài các hương vị vào với nhau tạo nên một món ăn hoàn chỉnh nhất. Đó phải chăng cũng là quan niệm sống hòa đồng, hòa quyện, cởi mở của dân tộc ta?
Chế biến bánh chưng không khó nhưng cần công phu tỉ mỉ và bàn tay khéo léo. Đó cũng chính là những đức tính cao đẹp của con người Việt Nam.
Bài làm mẫu 3Tết Nguyên Đán ở Việt Nam là cái Tết cổ truyền đã có tự ngàn xưa với: Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ. Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh. Trên bàn thờ ngày Tết của mỗi nhà, nhất thiết phải có bánh chưng. Giai thoại kể rằng hoàng tử Lang Liêu con vua Hùng đã được thần linh mách bảo, dùng lá dong, gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn… làm ra thứ bánh này để cúng Trời Đất, Tiên Vương và dâng lên vua cha. Nhờ đó mà chàng được vua cha truyền lại cho ngôi báu. Cũng từ đấy, bánh chưng được dùng để cúng vào dịp Tết. Tục lệ tốt đẹp ấy còn tồn tại cho tới ngày nay.
Nhìn chiếc bánh chưng, ta thấy mộc mạc, giản dị vô cùng, nhưng để làm ra nó lại tốn không ít công phu. Cứ đến hàm bảy, hăm tám Tết là các bà phải lo đi chợ mua lá dong cùng với mấy bó lạt giang. Lá dong phải to bản, lành lặn. Tốt nhất là lá dong bánh tẻ, không già, không non thì gói bánh mới đẹp. Lạt giang chẻ sẵn, mỏng và mềm, màu vàng ngà, rất ăn ý với lá dong xanh. Gạo nếp cái hoa vàng vừa dẻo vừa thơm được ngâm từ đêm trước, đem xả rồi xóc cho ráo nước. Đậu xanh đãi sạch vỏ. Thịt lợn xắt miếng to cỡ nửa bàn tay ướp muối, tiêu, hành chó thấm. Lá dong đã được cắt cuống, rửa sạch, lau khô… Tất cả bày sẵn ra chiếc nong, chờ người gói.
Cái cách gói bánh chưng ngày Tết mới vui vẻ và đầm ấm làm sao! Cả nhà quây quần quanh bà. Bà trải lá ra mâm, đong một bát gạo đổ vào, dàn đều rồi đổ nửa bát đỗ, xếp hai miếng thịt, lại thêm nửa bát đỗ, một bát gạo nữa. Tay bà khéo léo đãi gạo che kín đỗ và thịt rồi nhẹ nhàng bẻ bốn góc lá cho vuông vức, sau đó siết chặt từng chiếc lạt. Chẳng mấy chốc, chiếc bánh chưng đã được gói xong. Suốt một buổi sáng cặm cụi, bận rộn, bà đã gói hết thúng gạo. Bố tôi buộc hai cái thành một cặp rồi xếp vào chiếc nồi thật lớn, chuyên dùng để luộc bánh. Đám trẻ chúng tôi được bà gói cho mỗi đứa một chiếc bánh chưng be bé. Chùm bánh ấy để ở trên cùng và sẽ vớt ra trước nhất.
Phía góc sân, bốp lửa đã cháy đều. Năm nào, ông tôi hoặc bố tôi cũng giữ nhiệm vụ canh lửa, canh nước cho nồi bánh chưng. Những khúc tre, khúc củi khô tích trữ quanh năm giờ được đem ra đun. Ngọn lửa nhảy nhót réo ù ù, tàn than tí tách bắn ra xung quanh những chấm đỏ rực trông thật vui mắt. ông tôi bảo phải đun cho lửa cháy thật đều thì bánh mới, không bị hấy. Anh em tôi xúm xít bên ông, vừa hơ tay cho khỏi cóng, vừa nghe ông kể chuyện ngày xửa ngày xưa. Đến những đoạn thú vị, ông cười khà khà, rung cả chòm râu bạc.
Khoảng tám giờ tối thì bố tôi dỡ bánh, xếp rải ra trên chiếc chõng tre ngoài hiên. Hơi nóng từ bánh bốc lên nghi ngút, tỏa ra một mùi thơm ngậy, nồng nàn. Bố tôi đã chuẩn bị hai tấm ván gỗ và chiếc cối đá để nén bánh.
Khó có thể tả nỗi niềm sung sướng, hân hoan của lũ trẻ chúng tôi khi được nếm chiếc bánh chưng nhỏ xinh, nóng hổi. Nếp dẻo, đỗ bùi, thịt béo… ngon quá là ngon! Tưởng chừng như chẳng có thứ bánh nào ngon hơn thế!
Chiều ba mươi Tết, trên bàn thờ đèn nến sáng trưng, hương trầm nghi ngút, những cặp bánh chưng xanh được trân trọng bày bên cạnh đĩa ngũ quả, hộp trà, hộp mứt, chai rượu… và mâm cỗ tất niên để cúng trời đất, tổ tiên, đón các cụ về ăn Tết cùng con cháu. Nỗi xúc động rưng rưng trong lòng mỗi người. Không khí thiêng liêng của ngày Tết thực sự bắt đầu.
Bài làm mẫu 4Dân tộc nào cũng có thức ăn truyền thống. Song chưa thấy dân tộc nào có một thức ăn vừa độc đáo, vừa ngon lành, vừa bổ, vừa gắn liền với truyền thuyết dân tộc lâu đời, lại vừa có nhiều ý nghĩa sâu xa về vũ trụ, nhân sinh như bánh chưng, bánh giầy của Việt Nam.
Bánh chưng hình vuông, màu xanh, tượng trưng trái Đất, âm. Bánh dày hình tròn, màu trắng, tượng trưng Trời, dương, thể hiện triết lý Âm Dương, Dịch, Biện chứng Đông Phương nói chung và triết lý Vuông Tròn của Việt Nam nói riêng.
Bánh chưng âm dành cho Mẹ, bánh dày dương dành cho Cha. Bánh chưng bánh dày là thức ăn trang trọng, cao quí nhất để cúng Tổ tiên, thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn, nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục to lớn, bao la như trời đất của cha mẹ.
Theo truyền thuyết, bánh chưng bánh dầy có từ thời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi phá xong giặc Ân.Vua muốn truyền ngôi cho con, nhân dịp đầu xuân, mới hội các con mà bảo rằng: ”Con nào tìm được thức ngon lành để bày cỗ có ý nghĩa hay thì ta truyền ngôi cho”.
Các con trai đua nhau kiếm của con vật lạ, hy vọng được làm vua. Người con trai thứ mười tám của Hùng Vương thứ 6 là Lang Lèo (tên chữ gọi là Tiết Liêu), tính tình thuần hậu, chí hiếu, song vì mẹ mất sớm, không có người mẹ chỉ vẽ cho, nên rất lo lắng không biết làm sao, bỗng nằm mơ thấy Thần Đèn bảo: ”Vật trong trời đất không có gì quí bằng gạo, là thức ăn nuôi sống người. Nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng trưng Trời Đất. Lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột để tượng hình cha mẹ sinh thành”.
Lang Lèo (sau có người gọi Lang Liêu) tỉnh dậy, mừng rỡ làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp, đậu xanh thật tốt, thịt lợn (heo) ba rọi dày thật tươi. Đến hẹn, các lang (con vua) đều đem cỗ tới, đủ cả sơn hào hải vị. Lang Lèo chỉ có bánh dầy bánh Chưng. Vua lấy làm lạ hỏi, ông đem thần mộng tâu lên. Vua nếm bánh, thấy ngon, lại khen có ý nghĩa hay, bèn truyền ngôi cho Lang Lèo, tức đời vua Hùng Vương thứ 7. Từ đó, cứ đến Tết nguyên đán hay các đám cưới, đám tang, dân gian bắt chước làm theo, sau thành tục lệ để cúng Tổ tiên, cúng Trời Đất.
Bánh chưng độc đáo, sáng tạo, đậm đà bản sắc dân tộc còn ở những vật liệu và cách gói, cách nấu. Lúa gạo thì tượng trưng cho nền văn hóa lúa nước, nhiệt đới, nóng và ẩm, được chế biến dưới nhiều hình thức khác nhau, mang tính đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam hay Đông Nam Á. Người Trung Hoa ưa chế biến từ bột mì hơn; người Ấn Độ thì ưa chế biến từ kê… Thịt lợn hay heo được coi là lành nhất, nên các bệnh viện ngày nay thường chỉ sử dụng loại thịt heo chứ không dùng thịt bò hay thịt gà là thức ăn chính cho bệnh nhân. Người Việt thích thịt luộc hay nấu. Đậu xanh vừa ngon lành vừa bổ dưỡng. Bánh chưng như thế rất nhiều chất, đặc trưng của các món ăn Việt Nam. Độc đáo hơn nữa, khi nấu trong một thời gian khá dài thường trên 10 tiếng, phải để lửa râm râm, bánh mới ngon. Nấu bằng lò gas, tuy nhanh, nóng quá cũng sẽ không ngon. Vì được gói bằng lá dong, bánh chưng vừa xanh vừa đẹp, thơm hơn lá chuối. Phải gói thật kín, không cho nước vào trong, bánh mới ngon. Lạt phải buộc thật chặt, chắc; gói lỏng tay, ăn không ngon. Song nếu chắc quá, bánh cũng không ngon.
Tuy gọi là luộc (người Việt Nam thích luộc, người Trung Quốc thích quay), song vì nước không tiếp xúc với vật liệu được luộc, nên lại là hình thức hấp hay chưng (chưng cách thủy), khiến giữ nguyên được chất ngọt của gạo, thịt, đậu!
Có lẽ vì cách chế biến bằng chưng, nên mới gọi là bánh chưng. Vì thời gian chưng lâu nên các hạt gạo mềm nhừ quyện lấy nhau, khác hẳn với xôi khi người ta “đồ”, khi hạt gạo nhừ quyện vào nhau như thế, người ta gọi bánh chưng “rền”. Vì nấu lâu như thế, các vật liệu như thịt (phải là thịt vừa nạc vừa mỡ mới ngon; chỉ thịt nạc, nhân bánh sẽ khô), gạo, đậu đen nhừ. Cũng vì thời gian chưng lâu, khiến các chất như thịt, gạo đậu nhừ, có đủ thời gian chan hòa, ngấm vào nhau, trở thành hương vị tổng hợp độc đáo, cũng mang một triết lý sống chan hòa, hòa đồng của dân tộc ta. Cách chế biến như thế rất độc đáo, công phu. Bánh chưng nhất là bánh dầy có thể để lâu được. Khi ăn bánh chưng, người ta có thể chấm với các loại mật hay với nước mắm thật ngon, giàu chất đạm; cũng có thể ăn thêm với củ hành muối, củ cải dầm hay dưa món… Dân Bắc Ninh xưa thích nấu bánh chưng, nhân vừa thịt vừa đường!
Bánh chưng, bánh dầy quả thật là một món ăn độc đáo có một không hai của dân tộc. Bánh chưng là một trong những bằng chứng cụ thể chứng tỏ văn hóa ẩm thực Việt Nam có nhiều tiềm năng khiến Việt Nam trở thành một cường quốc về văn hóa ẩm thực!
….
Thuyết minh về bánh chưng đầy đủ Bài làm mẫu 1Trong dân gian, mỗi dịp xuân về người ta vẫn thường nghe câu:
Vâng đúng vậy, bánh chưng đã trở biểu tượng không thể thiếu trong dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam ta. Từ xa xưa đến nay, hình ảnh nhà nhà tất bật chuẩn bị quây quần bên nồi bánh chưng để đón Tết vô cùng quen thuộc với chúng ta. Bởi trong tâm thức của mỗi người thì bánh chưng là món ăn mang ý nghĩa sum vầy, đoàn viên.
Tương truyền trong câu nói của ông bà ta rằng bánh chưng ngày Tết đã có từ rất lâu. Mọi người vẫn tin rằng bánh chưng bánh giầy có từ thời vua Hùng thứ 6, và cho đến ngày nay thì nó đã trở thành biểu tượng của Tết truyền thống tại nước ta. Người đời vẫn luôn cho rằng bánh chưng là minh chứng cho sự đủ đầy của trời đất và sự sum vầy của gia đình sau một năm trời làm việc tất bật.
Cho dù chúng ta có ở bất cứ đâu trên mảnh đất hình chữ S này thì bánh chưng là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết. Có thể nói đây là món ăn được chờ đợi nhiều nhất, vì ngày Tết mới đúng là ngày thưởng thức những chiếc bánh chưng ngon và ấm áp nhất. Nhưng nếu bạn tới các vùng miền khác nhau thì bạn sẽ được thưởng thức hương vị cũng như thấy được cách làm đặc trưng ở mỗi nơi có điểm khác nhau.
Về nguyên liệu, bánh chưng được làm từ những nguyên liệu rất đơn giản và thân quen với đời sống nhân dân. Nguyên liệu chính là gạo nếp, lá dong, thịt, đậu xanh giã nhỏ (hoặc nhân đậu hấp). Mỗi nguyên liệu đều được chọn lọc thật kỹ để có thể tạo nên món ăn ngon và đậm đà nhất. Về phần gạo nếp thì ta chọn những hạt tròn lẳn, đều hạt, không bị mốc, khi nấu lên ngửi thấy mùi thơm lừng của nếp. Đậu xanh chọn loại đậu có màu vàng đẹp, nấu nhừ lên và giã nhuyễn làm nhân. Thịt ba chỉ hoặc thịt nạc cần trộn với tiêu xay, nêm nếm vừa ăn. Một nguyên liệu khác không kém phần quan trọng chính là lá dong để gói bánh. Ở một số vùng khác người ta dùng lá chuối gói bánh nhưng phổ thông nhất vẫn là lá dong. Lá gói bánh cần lau sạch, bỏ cuống, cắt thành miếng hoặc theo khuôn bánh để bánh có bề ngoài bắt mắt.
Việc lựa chọn lá gói bánh vô cùng quan trong. Lá dong cần có màu xanh đậm, có gân chắc, không bị héo và rách nát. Hoặc nếu những chiếc lá bị rách người ta có thể lót bên trong chiếc lá lành hoặc cắt đệm lá để gói sao cho giữ được hình vuông vắn và khi luộc bánh không bị vỡ. Khâu rửa lá dong, cắt phần cuống đi cũng rất quan trọng vì lá dong sạch mới đảm bảo vệ sinh cũng như tạo mùi thơm đặc trưng sau khi nấu bánh.
Sau khi chuẩn bị xong tất cả các nguyên vật liệu thì đến khâu gói bánh. Gói bánh chưng cần sự tẩn mẩn, tỉ mỉ và khéo léo để có được những chiếc bánh vuông vắn dâng lên ông bà tổ tiên. Nhiều người sử dụng khuôn vuông để gói nhưng nhiều người lớn có nhiều năm kinh nghiệm thì không cần, họ chỉ cần gấp 4 góc của chiếc lá dong lại là có thể gói được một chiếc bánh vô cùng đẹp. Bao bọc xung quanh nhân đậu và thịt là một lớp gạo nếp thật dày, phủ kín. Chuẩn bị dây lạt để gói, giữ cho phần ruột được chắc, không bị nhão ra trong quá trình nấu bánh.
Gói bánh đã khó thì công đoạn luộc bánh cũng vô cùng quan trọng. Thông thường mọi người luộc bánh trong một nồi to, đổ đầy nước và sử dụng củi khô, to để luộc trong khoảng từ 8 – 12 tiếng. Thời gian luộc bánh lâu như thế là vì để đảm bảo bánh sẽ chín đều và đạt được độ dẻo. Khi nồi bánh sôi cũng là lúc mùi bánh chưng bốc lên nghi ngút. Khi đó ta mới cảm nhận được không khí Tết mới trọn vẹn.
Sau khi chín, bánh chưng được mang ra và lăn qua lăn lại để tạo sự săn chắc cho chiếc bánh khi cắt ra đĩa và có thể để được lâu hơn.
Đối với mâm cơm cúng ngày Tết thì đĩa bánh chưng là điều tuyệt vời không thể thiếu. Cũng như trên bàn thờ ngày tết, một cặp bánh chưng cúng tổ tiên là phong tục lưu truyền từ bao đời nay. Bánh chưng không chỉ tượng trưng cho sự trọn vẹn của trời đất, cho những gì phúc hậu và ấm áp nhất của lòng người mà nó còn là những tình cảm đong đầy gắn kết của cả gia đình nữa.
Hiện nay trong những ngày Tết đến, người ta còn sử dụng bánh chưng như một món quà biếu, lễ Tết những người lớn tuổi. Nó tượng trưng cho lòng thành, cho sự chúc phúc tròn đầy nhất.
Mỗi dịp Tết đến xuân về, nồi bánh chưng nghi ngút khói chính là dấu hiệu cho sự ấm áp đoàn viên. Vì vậy, nó là món ăn truyền thống của người Việt mà không loại bánh nào có thể thay thế được. Đây chính là truyền thống, là nét đẹp của con người Việt Nam mà ta cần gìn giữ và tôn trọng từ quá khứ, hôm nay và cả ngày mai nữa.
Bài làm mẫu 2Ta vẫn thường được nghe kể về sự tích “Bánh chưng, bánh giầy” qua lời kể của bà, của mẹ: “Ngày xửa ngày xưa, vua Hùng muốn nhường lại ngôi vua của mình cho các con nên đã truyền rằng các hoàng tử hãy dâng lên vua những vật có ý nghĩa và lạ nhất thì sẽ truyền ngôi cho. Khi ấy Lang Liêu đã làm ra hai loại bánh trong đó có bánh chưng tượng trưng cho đất được vua khen ngợi rồi truyền ngôi báu cho. Từ đó bánh chưng được lưu truyền để dân ta dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất.
Quan niệm dân gian về bánh chưng cũng từ đó mà ra, người ta vẫn thường nói bánh chưng tượng trưng cho Trời Đất, là thức quà được ban tặng. Cho tới ngày nay, nhân dân ta đã sử dụng bánh chưng vào ngày Tết giống như một món ăn truyền thống đặc trưng không thể thiếu. Vật liệu chính để làm bánh chưng bao gồm lá dong, gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn, lạt, đó đều là những vật liệu dễ tìm, thân thuộc với người dân.
Về phần gói bánh thì nhân dân ta thường gói bánh theo hai hình là hình vuông truyền thống và hình tròn dài. Theo cách gói bánh vuông truyền thống nếu muốn cho bánh đẹp vuông vắn thì ta cần lựa lá dong phải to và dài, trước khi gói lá cần được rửa sạch, để khô rồi cắt đầu đuôi. Thông thường khi làm bánh chưng vuông, ta cắt lá và gấp khúc trước rồi xếp hai lá lên nhau, sau đó đổ một lớp gạo nếp dày, tiếp là đổ một ít đỗ bên trên, rồi miếng thịt đã ướp gia vị và cuối cùng là một lớp đỗ và lớp gạo nếp dày lên trên cùng. Công đoạn gấp bánh cần phải đảm bảo các xếp lá chồng lên vuông vắn và ôm sát vào những nguyên liệu bên trong. Trước đó ta cần lấy tay ấn thật chặt cho gạo đỗ lấp đầy vào những chỗ hở để tạo thành một hình vuông vắn. Khi đã có một khối vuông vắn thì chúng ta phải lấy lạt buộc cố định lại rồi đem đi luộc.
Đối với bánh chưng tròn dài (địa phương gọi tắt là bánh dài) thì cũng tương tư nhưng cần đến lá dong dài hơn và buộc bánh theo hình dài chứ không nén chặt theo hình vuông. Thường nhân dân ta hay gói bánh chưng vào những ngày cuối năm như 29 hay 30 Tết để đón năm mới bên nhau, cả gia đình cùng trông nồi bánh chưng ấm cúng để chờ khoảnh khắc điểm giao giữa năm cũ và năm mới. Hình ảnh anh chị em quây quần, cũng kể cho nhau những gì đã trải qua trong năm cũ, nói ra những dự định mới cho năm tới. Đó chính là khoảnh khắc xua tan hết nhưng mệt mỏi, áp lực còn sót lại, ta chỉ tận hưởng khoảnh khắc hạnh phúc bên gia đình mà thôi.
Bánh chưng trong ngày Tết có những ý nghĩa vô cùng to lớn. Nó là cách người Việt ta bày tỏ những tấm lòng nhớ về tổ tiên, về cội nguồn đã sáng tạo và để lại loại bánh có ý nghĩa này. Một món ăn thể hiện sự đầy đủ, trọn vẹn nhất cho bữa cơm đoàn viên. Và nó cũng là món ăn truyền thống không thể nào vắng mặt trong ngày tết của nhân dân ta.
Không những vậy, nhân dân ta sẽ chọn những chiếc bánh chưng đẹp nhất để dâng lên bàn thờ thờ cúng ông bà tổ tiên trong những ngày Tết.
Bánh chưng ăn nóng có lẽ là ngon nhất tuy nhiên thức quà này khi nguội rồi còn có thể cắt chúng ra từng miếng nhỏ đem rán lên ăn rất là ngon và thơm. Những người thích ăn nóng thì cũng có thể luộc lại như bình thường hoặc hấp nóng bánh.
Tóm lại, bánh chưng có ý nghĩa rất lớn trong đời sống cũng như tình cảm của nhân dân ta trong ngày tết truyền thống. Kể từ khi xuất hiện cho đến ngày nay, bánh chưng không chỉ khẳng định sự thơm ngon hấp dẫn mà còn xoay quanh những ý nghĩa sâu sắc của mình.
….
Thuyết minh về cách làm bánh chưng Bài làm mẫu 1Bánh chưng là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Nguyên liệu làm bánh chưng được lấy từ thiên nhiên hết sức gần gũi và thân thuộc trong đời sống của người Việt. Cách làm bánh hết sức đơn giản nhưng chứa đựng triết lý sâu xa của người xưa.
Nguyên liệu làm bánh chưng gồm các thành phần cơ bản và nguyên liệu làm bánh chưng hết sức đơn giản và dễ tìm thấy trong đời sống:
Lá để gói: thường là lá cây dong tươi. Lá dong chọn lá dong rừng bánh tẻ, to bản, đều nhau, không bị rách, màu xanh mướt. Lá dong: rửa từng lá thật sạch hai mặt và lau thật khô. Trước khi gói nhúng nước sôi để dẻo. Lau thật khô trên lá, cắt cạnh nhỏ vừa gói bánh.
Lạt buộc: bánh chưng thường dùng lạt giang được làm từ ống cây giang. Lạt có thể được ngâm nước muối hay hấp cho mềm trước khi gói.
Gạo nếp: Gạo nếp thường dùng gạo thu hoạch vụ mùa. Gạo vụ này có hạt to, tròn, dẻo đều và mới thu hoạch sẽ thơm dẻo hơn các vụ khác. Nhiều người chọn nếp cái hoa vàng hay nếp nương. Gạo nếp nhặt loại bỏ hết những hạt gạo khác, những viên sạn sỏi lẫn vào, vo sạch, ngâm gạo ngập trong nước cùng 0,3% muối trong thời gian khoảng 10-12 giờ tùy loại gạo và tùy thời tiết, sau đó vớt ra để ráo. Có thể xóc với muối sau khi ngâm gạo thay vì ngâm nước muối.
Đỗ xanh: đỗ thường được lựa chọn công phu, tốt nhất là loại đỗ trồng ở vùng đồi trung du Việt Nam. Đỗ xanh giã nhuyễn, ngâm nước ấm 40° trong 2 giờ cho mềm và nở, đãi bỏ hết vỏ, vớt ra để ráo. Nhiều nơi dùng đỗ hạt đã được đãi vỏ trong khi những nơi khác cho vào chõ đồ chín, mang ra dùng đũa cả đánh thật tơi đều mịn và sau đó chia ra theo từng nắm, mỗi chiếc bánh chưng được gói với hai nắm đậu xanh nhỏ.
Thịt: thường là thịt lợn. Thịt ba chỉ (ba rọi) với sự kết hợp của mỡ và nạc cho nhân bánh vị béo đậm đà, không khô bã như các loại thịt mông, thịt nạc thăn. Thịt lợn đem rửa để ráo, cắt thịt thành từng miếng cỡ từ 2,5 đến 3cm sau đó ướp với hành tím xắt mỏng, muối tiêu hoặc bột ngọt để khoảng hai giờ cho thịt ngấm.
Gia vị các loại: hạt tiêu dùng để ướp thịt làm nhân. Muối dùng để trộn vào gạo, đỗ xanh và ướp thịt. Đặc biệt thịt ướp không nên dùng nước mắm vì bánh sẽ chóng bị ôi, thiu. Ngoài ra một số loại gia vị khác ít phổ biến hơn cũng được sử dụng như thảo quả, tinh dầu cà cuống thường sử dụng tẩm ướp trong nhân bánh tại Hà Nội xưa, tuy nay ít nơi còn cầu kỳ gia thêm loại gia vị này.
Phụ gia tạo màu: bánh chưng với màu xanh của nếp được tạo thành bằng cách quay mặt trên của lá dong, lá chuối (mặt có màu xanh thẫm) vào trong, áp với bề mặt của gạo nếp. Một số nơi còn sử dụng các phụ gia khác như lá dứa hay lá giềng xay nhuyễn vắt lấy nước trộn gạo vừa tạo hương thơm vừa tạo cho bánh có màu xanh ngọc.
Khâu chuẩn bị nguyên liệu, vật liệu cho bánh chưng đặc biệt quan trọng để bánh có thể bảo quản được lâu dài không ôi thiu hay bị mốc. Thịt ướp dùng nước mắm, vo nếp không sạch, đãi đậu không kỹ hay rửa lá còn bẩn, không lau khô lá trước khi gói đều có thể khiến thành phẩm chóng hỏng.
Bánh chưng được gói không khuôn tại một gia đình làm bánh chưng bán tết, chiếc lá trong cùng quay mặt xanh vào trong để tạo màu cho nếp, 2 lá quay mặt xanh ra ngoài với dụng ý hình thức. Thông thường có hai cách gói bánh chưng: gói bằng tay không hoặc gói theo khuôn hình vuông khoảng 20cm x 20cm x 7cm sẵn có. Khuôn thường làm bằng gỗ.
Cách gói tay không thông thường như sau:
Rải lạt xuống mâm tròn tạo hình chữ thập. Đặt 2 chiếc lá dong lên trên lạt, nằm chồng 1/2 theo chiều dài lá lên nhau, chú ý phải quay mặt trên của 2 lá ra phía ngoài và mặt kém xanh hơn (mặt dưới) vào trong. Lượt sau: 2 lá rải như lượt đầu nhưng vuông góc với lượt đầu, chú ý là lần này lại phải làm ngược lại, quay mặt trên lá (xanh hơn) lên trên, mặt kém xanh hơn, úp xuống dưới.
Gạo nếp, xúc 1 bát đầy đổ vào tâm của hình chữ thập, dùng tay gạt đều, tạo hình vuông mỗi cạnh 20 cm. Lấy 1 nắm đỗ xanh bóp nhẹ và rải đều vào giữa vuông gạo đến gần hết bìa gạo.
Thịt lợn, lấy 1, 2 miếng tùy cỡ đã thái rải đều vào giữa bánh.
Lấy tiếp 1 nắm đỗ xanh nữa bóp nhẹ rải đều phủ lên trên thịt. Xúc 1 bát gạo nếp đổ lên trên và phủ khỏa đều, che kín hết thịt và đỗ.
Gấp đồng thời 2 lá dong lớp trên vào, vừa gấp vừa vỗ nhẹ để tạo hình khối vuông. Tiếp tục gấp đồng thời 2 lá dong lớp dưới vào như lớp trên, vừa gấp vừa lèn chặt nhẹ tay.
Dùng lạt buộc xoắn lại tạo thành hình chữ thập. 2 bánh chưng buộc úp vào nhau thành một cặp
Cách gói bánh có khuôn thì bánh đều nhau hơn và chặt hơn do được vỗ đều gạo, nén chặt, còn gói không khuôn thì bánh được gói nhanh hơn do đỡ mất công đo cắt lá theo kích thước khuôn. Bánh được gói không khuôn thì mặt trên lá được quay ra ngoài, còn với bánh có khuôn thì mặt dưới lá lại được quay ra ngoài.
Lấy nồi to, dày với dung tích trên 100 lít tùy theo số lượng bánh đã được gói. Rải cuống lá dong thừa xuống dưới kín đáy nhằm mục đích tránh cho bánh bị cháy. Xếp lần lượt từng lớp bánh lên đến đầy xoong và xen kẽ các cuống lá thừa cho kín nồi. Đổ ngập nước nồi và đậy vung đun. Người luộc bánh thường canh giờ tính từ thời điểm nước sôi trong nồi và duy trì nước sôi liên tục trong 8 đến 12 giờ. Trong quá trình đun, thỉnh thoảng bổ sung thêm nước nóng để đảm bảo nước luôn ngập bánh (người thực hiện thường đặt sẵn ấm nước bên cạnh bếp đun bánh để tận dụng nhiệt lượng). Những chiếc bánh ở trên có thể được lật giở để giúp bánh chín đều hơn, tránh tình trạng bị lại gạo sau này. Trong lúc luộc từ 4 đến 5 tiếng, có thể lấy bánh ra, ngâm trong nước lạnh, thay một lượt nước mới khác, bánh sẽ rền, ngon hơn.
Sau khi luộc xong, vớt bánh ra rửa sạch lá trong nước lạnh cho hết nhựa, để ráo. Xếp bánh thành nhiều lớp, dùng vật nặng đè lên để ép bánh cho ra nước, chắc mịn (tục gọi là để cho rền bánh) và phẳng đều trong vài giờ. Hoàn tất công đoạn ép bánh, bánh được treo lên chỗ khô ráo trong nhà để bảo quản.
Bánh thường được treo ở nơi thoáng mát, không bụi bặm, ẩm thấp để tránh bị mốc và ôi thiu, tùy thời tiết có thể để được hàng tháng trời không hỏng. Nhiều vùng ngày xưa còn đưa bánh xuống ngâm dưới ao hoặc giếng nước để bảo quản, lá bánh với nhựa của gạo khi nấu là lớp màng ngăn nước lọt vào làm hỏng bánh. Cách ngâm nước bảo quản bánh chưng tương truyền gắn với sự tích vua Quang Trung tiến quân ra Bắc Hà vào dịp tết nguyên đán năm Kỷ Dậu (1789), nhân dân bỏ bánh chưng xuống ao, ngừng ăn tết nhằm hoàn tất cuộc đại phá quân Thanh và ăn tết muộn sau đó. Tuy nhiên, hiện cũng ít nơi còn sử dụng phương thức bảo quản này.
Trên bàn thờ ngày tết không thể thiếu bánh chưng và bánh giầy được bày theo cặp. Nhiều người cầu kỳ còn bóc bỏ lớp lá bên ngoài của bánh và gói lại bằng lá tươi mới, sau đó buộc lạt màu đỏ trước khi đặt lên bàn thờ.
Bánh chưng vuông thường được cắt chéo bằng chính lạt gói bánh đó. Cách cắt bánh vuông như vậy giúp cho mỗi miếng bánh đều có nhân đều nhau. Ngoài ra cũng thường thấy cách cắt bánh chưng vuông theo phương ngang và khi đó các miếng bánh ở giữa sẽ nhiều nhân hơn. Bánh chưng dài thường cắt lát ngang, gọi là “đồng bánh”.
Bánh chưng thường được ăn cùng với dưa hành, nước mắm, xì dầu rắc chút bột tiêu. Ra sau tết, bánh có thể bị lại gạo, bị cứng, khi đó người ta thường đem rán vàng trong chảo mỡ và ăn kèm với dưa góp.
Theo quan niệm dân gian, bánh chưng tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa. Bánh có màu xanh lá cây, hình vuông, được coi là đặc trưng cho đất trong tín ngưỡng của người Việt cổ và các dân tộc khác trong khu vực châu Á.
Gói và nấu bánh chưng, ngồi canh nồi bánh chưng trên bếp lửa đã trở thành một tập quán, văn hóa sống trong các gia đình người Việt mỗi dịp tết đến xuân về. Khi sêu tết nhau tặng bánh chưng thì người Việt có lệ tặng một cặp bánh chứ không tặng một cái lẻ.
Chiếc bánh chưng trong ngày tết cổ truyền dân tộc gói ghém trong đó cả một nền văn minh nông nghiệp lúa nước thời bấy giờ. Bên ngoài của chiếc bánh chưng là lá dong gói có sẵn trong tự nhiên, bên trong được chế biến từ gạo nếp, đậu xanh, hành, thịt heo,… đều là những nguyên liệu nấu ăn truyền thống của dân tộc. Chính vì vậy bánh chưng xuất hiện vào ngày Tết để thể hiện sự biết ơn trời đất đã cho mưa thuận gió hòa, để mùa màng bội thu đem lại cuộc sống ấm no cho con người. Bánh chưng Tết cũng thể hiện được chữ hiếu của người con với cha mẹ, chính vì thế mà phong tục dùng bánh chưng làm quà biếu dâng lên cha mẹ cũng từ đây mà có.
Bài làm mẫu 2Ẩm thực Việt Nam không chỉ đặc sắc trong hương vị, nguyên liệu mà còn chứa đựng tinh hoa của sự khéo léo cũng như văn hóa lối sống, tâm hồn người Việt. Dân gian có đôi câu đối: “Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ/ Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh”. Nhắc đến tết cổ truyền, chắc hẳn mỗi người Việt Nam, dù đang ở trên chính mảnh đất quê cha hay đang ở nơi đất khách quê người cũng không thể quên được thức bánh dẻo thơm bùi của đỗ xanh, dẻo ngọt của gạo nếp, béo ngậy của thịt mỡ của bánh chưng – thức bánh hình vuông ẩn chứa những ý niệm sâu sắc về văn hóa dân tộc.
Sự ra đời của bánh chưng gắn liền với truyền thuyết “Bánh chưng, bánh giầy” cùng sự kiện vua Hùng Vương đời thứ sáu chọn người nối ngôi. Giữa muôn vàn sơn hào hải vị, cặp bánh chưng bánh giầy đã đem đến chiến thắng cho hoàng tử Lang Liêu. Nếu bánh giầy thon dài với hình tròn tượng trưng cho trời thì bánh chưng lại là ý niệm ẩn dụ của mặt đất với hình dáng vuông vức.
Advertisement
Là một món ăn thể hiện rõ đặc trưng của nền ẩm thực Việt Nam, nguyên liệu làm ra bánh chưng cũng hết sức dân dã. Vỏ ngoài của bánh được tạo nên từ những chiếc lá dong xanh tươi, lành lặn và gân chắc cùng những sợi dây lạt giang trắng phau, mảnh nhỏ và mềm mại. Còn bên trong bánh là những nguyên liệu quen thuộc như thịt ba chỉ, đỗ xanh, hành cùng một số gia vị đơn giản khác như muối trắng, hạt tiêu,…
Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ những nguyên liệu trên, bàn tay khéo léo của con người sẽ sơ chế nguyên liệu và lần lượt thực hiện các công đoạn gói bánh, nấu bánh. Lá dong có nhiệm vụ bao bọc và ảnh hưởng đến màu sắc của chiếc bánh chưng nên cần được chọn lọc với sắc xanh mướt, sau đó rửa sạch sẽ những bụi bặm và vết bẩn, dùng khăn lau khô hoặc để ráo nước. Gạo nếp là thành phần quan trọng nhất của chiếc bánh nên cần đảm bảo những yêu cầu như hạt to, đều hạt, tròn và thơm dẻo. Trước khi gói bánh, những hạt gạo này sẽ được ngâm cùng nước trong khoảng thời gian nhất định, thường kéo dài từ 12 tiếng đến 14 tiếng. Đỗ xanh sau khi được xay hoặc giã vỡ đôi, người làm bánh sẽ ngâm trong nước ấm với nhiệt độ thường ở mức 40 độ C để hạt đỗ trở nên mềm hơn và sau đó đãi sạch vỏ đỗ, chỉ giữ lại sắc tươi vàng ươm. Về nhân thịt của bánh chưng, loại thịt thường được sử dụng là thịt ba chỉ vừa nạc vừa mỡ cắt thành từng miếng, ướp cùng những gia vị như hành khô, hạt tiêu để gợi dậy mùi thơm và hương vị.
Để tạo ra một chiếc bán với hình thù vuông vức, gói bánh là công đoạn hết sức quan trọng. Sau khi trải lá dong, người gói có thể sử dụng khuôn để tạo nên bốn góc vuông cân xứng, hài hòa. Và lần lượt các nguyên liệu khác được sắp xếp theo thứ tự: gạo nếp ở ngoài, đỗ xanh, thịt lợn ở bên trong, và đổ thêm gạo nếp để lấp đầy chiếc bánh. Quá trình này đòi hỏi người gói bánh cần tỉ mỉ và khéo léo. Sau đó, những chiếc bánh tươi tắn, vuông vức được xếp vào nồi, đổ nước vào luộc trong vòng 10 – 12 tiếng để bánh chín đều và dẻo thơm. Trong lúc luộc bánh, những thành viên trong gia đình thường quây quần bên bếp lửa để kể cho nhau nghe những câu chuyện về năm cũ.
Vào mỗi dịp Tết đến xuân về, bánh chưng luôn là yếu tố không thể thiếu và mang trong mình những ý niệm về sự tưởng nhớ công ơn và lòng thành kính đối với những người đã khuất. Đồng thời, chiếc bánh vuông vắn tượng trưng cho mặt đất thể hiện mong ước về một cuộc sống trọn vẹn và ấm no. Hơn hết, nó còn là biểu tượng cho thành tựu văn minh nông nghiệp của dân tộc ta.
Bánh chưng vuông tượng trưng cho mặt đất, xanh màu lá dong có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tâm thức con người Việt Nam. Bánh chưng, hơn cả một món ăn – đó còn là bản sắc dân tộc, là nét đẹp ẩm thực truyền thống ngàn đời nay còn lưu giữ.
…..
Thuyết minh về phong tục gói bánh chưng ngày TếtBánh chưng là một sản vật xuất hiện từ rất xa xưa, từ thời đại Vua Hùng cho đến nay. Có thể nói, bánh chưng là trong những sản vật mang đậm tính truyền thống, vừa có sức trường tồn cùng với thời gian, theo những tháng năm lịch sử của dân tộc vừa rất gần gũi với đời sống thường nhật trong lĩnh vực văn hóa ẩm thực và tâm linh của người Việt Nam. Tuy nhiên, trong xã hội ngày càng hiện đại, đã có nhiều truyền thống đang bị mai một, bên cạnh đó cũng còn một số giá trị truyền thống vẫn được người Việt lưu giữ cho đến tận bây giờ đó là phong tục gói bánh chưng vào những dịp Tết đến xuân về.
Theo truyền thuyết “Bánh chưng, bánh dày”, Vào đời Hùng Vương thứ 6, nhân dịp giỗ tổ vua Hùng và nhà vua muốn truyền ngôi cho con nên đã triệu tập các quan Lang (các con của nhà vua) đến và truyền rằng: “vị quan Lang nào tìm được món lễ vật dâng lên tổ tiên hợp ý với nhà vua sẽ được nhà vua nhường ngôi“. Các vị quan Lang cùng đua nhau lên rừng, xuống biển tìm kiếm những món ngon vật lạ và các sản vật quý để làm lễ vật dâng lên nhà vua với hy vọng được nhà vua nhường ngôi cho. Trong đó có người con trai thứ mười tám của vua Hùng tên là Lang Liêu, là người nghèo khó nhất trong số các người con của vua. Với tính tình hiền lành, chí hiếu, mẹ lại mất sớm, nên không thể tìm những sản vật quý hiếm về dâng vua cha. Chàng lo lắng không biết phải làm sao thì bổng nằm mơ thấy ông Tiên bảo:”Vật trong trời đất không có gì quý bằng gạo, là thức ăn nuôi sống người. Nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng trưng Trời Đất. Lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột để tượng hình cha mẹ sinh thành”. Lang Liêu tỉnh dậy mừng rỡ và làm theo lời Tiên ông đã dặn, chàng đã dùng những nông sản thường ngày gồm gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn và lá dong để tạo ra hai loại bánh Chưng và bánh dày tượng trưng cho trời và đất làm lễ vật dâng vua. Đến ngày hẹn, các vị quan Lang đều đem cỗ tới nào là sơn hào hải vị,…Riêng lễ vật của Lang Liêu chỉ có bánh chưng bánh dày. Vua cha lấy làm lạ nên hỏi, Lang Lêu bèn đem “Thần mộng” tâu lên. Vua nếm bánh thấy ngon, lại khen có ý nghĩa, rất hợp ý vua Hùng, và vua đã truyền ngôi cho Lang Liêu, tức là đời vua Hùng Vương thứ 7.
Từ đó bánh Chưng, bánh dày đã trở thành lễ vật không thể thiếu trong các nghi thức thờ cúng tổ tiên, để thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn đối với cha ông. Bánh Chưng có hình vuông, màu xanh tượng trưng cho Đất, đây cũng là món ăn, là nét đẹp truyền thống không thể thiếu vào mỗi dịp tết đến xuân về, mọi người cùng nhau quây quần bên nồi bánh chưng nghi ngút khói.
Những chiếc bánh chưng xanh hình vuông rất độc đáo, sáng tạo mang đậm bản sắc dân tộc còn nhờ vào nguyên liệu, cách gói và cách nấu. Nguyên liệu chính là lúa gạo, đây thì tượng trưng cho nền văn hóa lúa nước nhiệt đới, với khí hậu nhiệt đới, quanh năm nóng ẩm, nên những chiếc bánh hình vuông có màu xanh được chế biến với nhiều hình thức khác nhau nhưng vẫn mang tính truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc. Phần nhân của bánh được làm từ thịt lợn mềm thơm được ướp gia vị đậm đà, nhân đậu xanh vừa ngon lành vừa bổ dưỡng. Và công đoạn gói bánh chưng cũng rất cầu kỳ, lá gói bánh phải là lá dong và cách gói phải thật kín, thật đẹp sao cho nước không thể vào trong, bánh mới ngon. Lạt phải buộc thật chặt, chắc, không gói lỏng tay, cũng không chắc quá, bánh cũng không ngon.
Điều độc đáo hơn nữa là khoảng thời gian nấu bánh, không giống như những loại bánh khác, thời gian nấu bánh kéo dài khoảng 10 tiếng đồng hồ. Đây là lúc mọi người sum họp cùng nhau quây quần ngồi trông nồi bánh bên bếp lửa hồng trong không khí lạnh của những đêm giáp tết, những em nhỏ hay nghịch thường hay lấy những củ khoai vùi sâu vào trong bếp than hồng rực cũng là những kỷ niệm không thể quên được trong lòng mọi người.
Vào những ngày sau Tết, bánh Chưng còn lại được đem đi rán cũng rất ngon và trở thành món ăn ưa thích của nhiều người, đặc biệt là những em nhỏ. Khi ăn có cảm giác “trong dai, ngoài giòn” hòa quyện cùng mùi thơm đặc trưng của bánh chưng rán là một cảm giác rất dễ “gây nghiện” với nhiều người. Và họ tìm đến bánh Chưng rán ngon vào mỗi buổi sáng như một món ăn quen thuộc chứ không riêng gì dịp Tết.
Ngày tết, ăn một miếng bánh chưng sau khi cúng lễ tổ tiên, ông bà, dư vị thời gian, không gian của lịch sử như cùng quy tụ trong màu xanh của bánh, mùi thơm thảo của hạt nếp tiền nhân để cùng suy ngẫm về ý nghĩa triết học và giá trị nhân văn của các truyền thuyết, các sự tích về bánh chưng của người Việt. Đó cũng là một cách di dưỡng tinh thần, làm giàu thêm bản sắc văn hoá tâm linh và văn hoá ẩm thực Việt Nam.
Bánh chưng là món bánh Tết đặc trưng người dân các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ. Riêng với các tỉnh miền Nam, thì món bánh phổ biến trong những ngày Tết là bánh Tét, một loại bánh hình trụ tròn, được gói bằng lá chuối, với nguyên liệu là gạo nếp, thịt lợn và nhân bánh làm từ đỗ xanh, đỗ đen hay chuối. Hương vị của bánh Tét cũng không khác nhiều so với bánh Chưng. Theo lời ông bà xưa tương truyền rằng, do sự đối đầu giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn vào cuối thời nhà Lê, nên chúa Nguyễn đã cho nhân dân “đàng Trong” làm bánh Tét để tạo ra sự khác biệt với bánh chưng của “đàng Ngoài”.
Hiện nay, cùng với sự phát triển của xã hội, thì bánh chưng cũng ngày càng trở nên phong phú đa dạng về kích cỡ, hương vị cũng như những biến tấu phần nhân thêm mới lạ. Từ nông thôn cho đến thành thị, ở các khu chợ đi đâu bạn cũng có thể lựa chọn cho mình những chiếc bánh chưng với các kích cỡ, to nhỏ khác nhau, phần nhân cũng vì thế mà đa dạng với vị mặn hay ngọt, đều này cũng làm giàu thêm bản sắc văn hoá tâm linh và ẩm thực của người Việt Nam.
….
Văn Mẫu Lớp 9: Thuyết Minh Về Một Phiên Chợ Quê Việt Nam 2 Dàn Ý &Amp; 5 Bài Giới Thiệu Về Chợ Quê
Chợ quê là nơi mua bán, trao đổi hàng hóa. Phiên chợ quê là nét đặc trưng, là nét đẹp riêng của làng quê Việt Nam từ bao đời nay. Thuyết minh về phiên chợ quê, thuyết minh chợ Tết quê em sẽ giúp các em rèn kỹ năng viết văn thuyết minh thật tốt, để ngày càng học tốt môn Văn 9.
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung: Chợ họp ở đâu? Một tháng mấy phiên?
2. Thân bài:
* Tả cảnh chợ:
+ Thời gian và địa điểm họp chợ.
+ Quang cảnh:
Hàng hoá đủ loại.
Người đông vui, nhộn nhịp.
Cảnh mua bán tấp nập.
3. Kết bài:
Phiên chợ làm cho khung cảnh làng quê em vui vẻ hơn, sống động hơn.
1. Mở bài
Giới thiệu những nét khái quát về đối tượng thuyết minh: Phiên chợ quê Việt Nam.
2. Thân bài
a. Giới thiệu chung về vị trí và lịch sử hình thành
Được hình thành từ lâu đời.
Chợ quê thường nằm ở đầu mỗi làng, xã hoặc là nơi giao nhau của các làng, xã.
Mỗi chợ sẽ có những tên gọi riêng và có phiên chợ vào một số này nhất định ở trong tháng.
b. Giới thiệu về khung cảnh sinh hoạt và những hoạt động của phiên chợ
Kết cấu, quang cảnh rất đơn giản, thường là những lều bằng lá tranh, lá cọ và cột làm bằng tre.
Những phiên chợ quê thường bắt đầu từ lúc sáng sớm tinh mơ và kết thúc khi buổi xế chiều.
Từ sáng sớm, những người buôn bán đã mang rất nhiều hàng hóa đến chợ và bày biện, mỗi người, mỗi gian hàng có những món hàng hóa khác nhau.
Ngay từ cổng chợ, âm thanh náo nhiệt, ồn ào, tấp nập kẻ mua người bán, người mời hàng, người trả giá và còn có cả tiếng trò chuyện vui vẻ của những cô những bác đi chợ.
Những phiên chợ quê luôn bày bán rất nhiều những món hàng: Những gánh phở, các loại bánh như bánh gạo tẻ, bánh bao, bánh chưng, những nhu yếu phẩm thiết yếu hằng ngày,…
c. Giá trị, ý nghĩa của phiên chợ quê
Là nơi mua bán, trao đổi hàng hóa
Phiên chợ quê là nét đặc trưng, là nét đẹp riêng của làng quê Việt từ ngàn đời nay và có rất nhiều họa sĩ đã lấy cảm hứng từ đây để vẽ nên những bức tranh thật tuyệt.
Là nơi lưu giữ những kỉ niệm, những kí ức tuổi thơ hồn nhiên của những đứa trẻ nơi làng quê Việt.
3. Kết bài: Khái quát những đặc điểm cơ bản, giá trị, ý nghĩa của phiên chợ quê Việt Nam và nêu cảm nhận của bản thân.
Những làng quê trên mọi miền của đất nước Việt Nam luôn để lại dấu ấn đậm sâu trong mỗi người với những lũy tre làng xanh tươi rì rào trong gió, những cánh đồng thẳng cánh cò bay, với giếng nước, gốc đa,… Và có lẽ hơn tất cả, nơi in dấu những kỉ niệm tuổi thơ, nơi hội tụ đầy đủ nhất những nét đặc trưng của làng quê đó chính là phiên chợ quê.
Từ ngàn đời nay, chợ quê luôn là một nét đẹp trong văn hóa của làng quê Việt và nó được hình thành từ lâu đời. Chợ quê thường nằm ở đầu mỗi làng, xã hoặc là nơi giao nhau của các làng, xã. Sở dĩ như vậy bởi là nơi trao đổi hàng hóa của những người trong làng, hoặc trong xã. Cùng với đó, mỗi chợ sẽ có những tên gọi riêng, có thể dựa vào đặc điểm của chợ hay của làng xã mà đặt tên cho nó. Đồng thời, mỗi chợ sẽ có phiên chợ vào một số này nhất định ở trong tháng và những ngày này luôn cố định, không thay đổi theo thời gian.
Chợ quê thường có kết cấu, quang cảnh rất đơn giản, thường là những lều bằng lá tranh, lá cọ và cột làm bằng tre. Ngày nay, có nhiều nơi đã được xây bằng gạch, thành những gian hàng khang trang hơn. Những phiên chợ quê thường bắt đầu từ lúc sáng sớm tinh mơ và kết thúc khi buổi xế chiều. Từ sáng sớm, những người buôn bán đã mang rất nhiều hàng hóa đến chợ và bày biện, mỗi người, mỗi gian hàng có những món hàng hóa khác nhau. Ngay từ cổng chợ, người ta đã nghe thấy âm thanh náo nhiệt, ồn ào, tấp nập kẻ mua người bán, người mời hàng, người trả giá và còn có cả tiếng trò chuyện vui vẻ của những cô những bác đi chợ. Thêm vào đó còn có những em bé theo mẹ đi chợ, vừa đi vừa ngắm nhìn khung cảnh xung quanh. Những phiên chợ quê luôn bày bán rất nhiều những món hàng. Từ đầu chợ đã nghe thấy mùi thơm của những gánh phở, mùi hương của những loại bánh như bánh gạo tẻ, bánh bao, bánh chưng,… Không dừng lại ở đó, chợ còn là nơi bày bán những nhu yếu phẩm thiết yếu hằng ngày cho mọi người như rau củ, thịt, cá, các loại hoa quả, các loại gạo,… Có lẽ những gian hàng này luôn là nơi được nhiều người quan tâm nhất vì vậy lúc nào cũng đông đúc, nhộn nhịp. Thêm vào đó, ở chợ, người ta còn bày bán các loại áo quần, giày dép, mũ nón,… để mọi người có thể ghé lựa chọn và mua. Những phiên chợ quê bao giờ cũng vậy, luôn đầy đủ mọi món đồ và là niềm mong ước của những đứa trẻ.
Những phiên chợ quê đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống của con người Việt Nam nói chung và ở những làng quê nói riêng. Nó không chỉ là nơi mua bán, trao đổi hàng hóa mà hơn thế phiên chợ quê là nét đặc trưng, là nét đẹp riêng của làng quê Việt từ ngàn đời nay và có thật nhiều họa sĩ đã lấy cảm hứng từ đây để vẽ nên những bức tranh thật tuyệt. Cùng với đó, những phiên chợ quê còn là nơi lưu giữ những kỉ niệm, những kí ức tuổi thơ hồn nhiên của những đứa trẻ nơi làng quê Việt.
Như vậy, cùng với câu đa, giếng nước, sân đình, những phiên chợ quê là nét đẹp, là biểu tượng của làng quê Việt. Hình ảnh những phiên chợ quê luôn là dấu ấn đậm sâu trong lòng mỗi người con khi xa quê.
Năm nào cũng thế, cứ mỗi dịp Tết đến, mẹ lại cho tôi tới chợ để sắm Tết. Những ngày này, chợ Tết bao giờ cũng rất đông vui, náo nhiệt. Nhưng chợ Tết năm nay để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc nhất
Sáng sớm, hai mẹ con tôi đã đến chợ. Phía đông, mặt trời còn ngái ngủ sau lớp mây hồng phơn phớt. Vậy mà, chợ đã khá đông rồi. Có lẽ ai cũng muốn nhanh chân lựa những món hàng còn mới. Từng tốp, từng tốp người quang gánh kĩu kịt, tíu tít đổ về chợ. Tiếng trò chuyện râm ran khiến cả khu chợ ồn ào, náo nhiệt khác với ngày thường. Ngay lối vào chợ là hàng bán lá dong. Lá dong được xếp thành từng đống lớn gọn ghẽ, xanh mươn mướt.
Cạnh đó là những bó ống dang để chẻ lạt, gói bánh chưng. Kế đó là dãy bán măng khô, nấm hương, mộc nhĩ,… và các loại cây thuốc quý như cam thảo, sa nhân, hồi, quế – những đặc sản mang hương vị của núi rừng. Các cô bán hàng, giọng ngọt như đường, đon đả chào mời khách mua hàng. Bên trái chợ là khu bán hoa quả. Những quả chuối vàng ruộm, mập mạp, đều đặn trông như những ngón tay đang khum khum xoè ra. Quả bưởi to, tròn màu nắng ấm, còn nguyên cuống lá xanh. Những rổ cam ngọt lành, quả hồng xiêm màu nâu xám. Còn nữa là chùm nho tím với những quả treo lúc lỉu, mọng nước… Tất cả đều được cô bán hàng sắp xếp nhìn thật vui mắt. Chếch sang một chút là nơi bán rau, đủ các loại cây nhà lá vườn. Củ su hào còn nguyên phấn trắng, cải bẹ mỡ màng. Cà chua đỏ ối, chín căng mọng xếp vào từng giỏ lớn cạnh những bó hành dọc xanh, củ trắng nõn nà. Tất cả đều tươi xanh roi rói. Đi tiến lên chút nữa là quầy bán bánh kẹo. Những hộp mứt, hộp kẹo, bánh được trang trí với nhiều hình dạng và màu sắc sặc sỡ trông thật bắt mắt. Những thỏi kẹo sôcôla hay những gói bánh trứng càng vì thế mà ngon lành hơn. Những lon bia, chai rượu cũng được tô điểm mới lạ, đẹp hơn mọi ngày. Mẹ tôi vào lựa hai chai rượu một gói bánh về chuẩn bị thắp hương. Bước ra khỏi quầy bánh kẹo, tôi và mẹ đến xem quần áo tại một cửa hàng đối diện. Những tấm thổ cẩm, những tấm vải dệt rực rỡ sắc màu làm tôi hoa cả mắt. Kẻ mua, người bán ồn ào, tấp nập. Mấy cô gái trẻ ướm thử những thứ mình định mua rồi quay ra nhìn nhau cười khúc khích. Mẹ chọn cho tôi và Đạt mỗi đứa một bộ để diện đi chơi Tết. Chen giữa dòng người, hai mẹ con tôi như bị cuốn đi trong những tiếng chào mời tíu tít. Luồn lách mãi mới đến được hàng hoa. Vươn lên tán lá dày, xanh mát là hàng chục bông hồng đua nhau toả hương khoe sắc. Chúng khoác lên mình bộ dạ hội đỏ thắm, cao sang cùng những viên kim cương điểm xuyết cho tà áo rực rỡ. Cạnh đó là những bông cúc gắn liền với mùa thu trong sáng, dịu êm. Những bông hoa vàng tươi, kiêu hãnh chao nghiêng theo làn gió nhẹ khoe những cánh vàng e ấp, mịn màng. Chúng như mời gọi các nàng ong, nàng bướm tụ hội. A, kia rồi! Cây bích đào duyên dáng với hàng ngàn, hàng vạn chồi non, lộc biếc như vô vàn những ánh nến lấp lánh ẩn hiện dưới nắng sớm. Nép sau tà áo xanh mơn mởn, những cánh hoa phơn phớt hồng đầu tiên đã hé nở, chào đón Tết đến. Cạnh đó là nơi bán đèn lồng. Những chiếc đèn lồng đỏ rực rỡ để trang trí nhà cửa, cầu cho mọi người năm mới tốt lành.
Niềm vui ở chợ Tết theo bước chân mẹ con tôi đến tận nhà. Tôi mong rằng chợ Tết năm sau mình sẽ được ngắm nhìn nhiều điều mới lạ hơn nữa.
Thấm thoát thế mà tháng chạp lại về. Năm nọ cứ gối tiếp qua năm kia, ngày tháng trôi đi nhanh quá. Một cái Tết nữa lại đến…Từ khi hết Noel, qua Tết dương lịch, không khí Tết đã len lỏi đâu đây. Các công sở đã râm ran chuyện thưởng Tết, phố phường Hà Nội trang hoàng hơn. Xa hơn nữa, khu vực ngoại thành, các làng hoa, cây cảnh chờ đợi mùa Tết đến để mang sản phẩm đem bán.
Còn ở các vùng quê phải chờ đến tận ngoài rằm tháng chạp… nhưng thực sự chỉ bắt đầu từ ngày 23 âm lịch, khi ông Công, ông Táo cưỡi cá chép về chầu trời. Có lẽ đông đúc vào ngày 28 đến 30 Tết âm lịch. Giáp Tết, người nông dân vẫn ra đồng, vẫn chăm nom bờ bãi, bón cây, tỉa củ, mang những sản phẩm mình làm đem ra chợ bán, kiếm một chút lấy tiền tiêu Tết.
Không khí Tết ở chợ quê khác hẳn chợ thành phố. Giữa muôn trùng hàng hóa của thời đại công nghiệp rượu bia, bánh kẹo, đồ hộp, những sản phẩm của người nông dân làm ra không thể thiếu, góp phần làm nên sự độc đáo của chợ quê. Những đôi quang gánh, nhiều khi chỉ là vài củ su hào, mấy mớ mùi thơm hay những nải chuối xanh, quả cau, quả bưởi… đều được người nông dân mang ra chợ.
Như thế là đã quá đủ đối với các em… Nhiều em nhỏ được mẹ cho đi chợ, được đặt ngồi một bên thúng để mẹ gánh cho cân, bên kia là một ít sản phẩm mang đi bán hay những em bé được ông bà cho đi chợ. Có khi cả 3, 4 đứa ngồi trên một cái xe đạp, trên tay cầm những quả bóng mà mặt mũi thì hớn hở vô cùng…
Chợ Tết quê cũng không thể thiếu hoa tươi, cây cảnh, hoa hồng, hoa cúc, rồi thược dược, đào, quất và cả mai vàng… Cũng những hạt hướng dương, kẹo lạc, hoa quả… nhưng có một cái gì đó đặc chất quê. Những con đường đất, những gian chợ nhỏ, người nông dân ra chợ vẫn chấn lấm tay bùn. Sản phẩm bán ra lại rẻ nếu so với đi chợ ngoài thành phố.
Người thành phố vẫn bảo nhau, bây giờ đi chợ đắt đỏ, đi chợ cứ như mất cắp, nhất là Tết đến, cái gì cũng phải mua sắm tốn kém. Ở quê, người nông dân tự tay mang sản phẩm của mình làm ra đi bán, có khi chỉ rẻ một nửa mà vừa tươi, vừa ngon. Chẳng hạn rau cũng cắt từ ruộng, hoa cũng tự tay trồng… Làm cho người ta có một cảm giác rất yên tâm và thoải mái.
Lâu lắm mới được đi chợ Tết. Nhìn hình ảnh các em nhỏ, lòng chợt lại nhớ cái thuở xưa, như lại thấy hình ảnh của mình ngày thơ bé. Ngày ấy áo quần còn thiếu thốn, trời thì rét mà ăn mặc phong phanh, thế mà cả 4, 5 anh em dắt díu nhau đi chợ Tết. Đi chợ chỉ để được ăn quà cho thoải mái, rồi mua quả bóng bay, thổi to lên và treo đầy nhà. Còn các bà các mẹ, cắt gánh rau khoai lang đi bán, nải chuối xanh trong vườn quả cong quả thẳng, ghép đôi lại hai nải mới thành nải chuối thờ tổ tiên ngày Tết.
Ai có gì cũng mang ra chợ bán để lấy tiền sắm Tết. Trời rét, mưa phùn, chợ quê se sắt, các bà các mẹ quàng áo tấm ám mưa, gánh gồng ra chợ… đổi lấy khi thì bó lá rong, khi thì gói hương trầm hay chỉ đôi ba lạng chè, gói thuốc… Cứ sắm Tết dần đến chiều 30 thì trong nhà cũng đã có đủ nồi bánh chưng, cân giò lụa… hay trên bàn thờ cũng đủ hương nến thờ cúng tổ tiên.
Advertisement
Bao nhiêu năm đã qua đi, hình ảnh những cái Tết quê không thể phai mờ trong tâm trí. Tuổi thơ gắn bó với gia đình, với bà, với mẹ… Giờ đây, khi đã lớn khôn nhưng mỗi khi tết, xuân về, cái cảm giác nao nao vẫn quay trở lại. Mong ước được trở về với tuổi thơ, lại được đi chợ Tết, mặc dù ngày ấy còn thiếu thốn biết bao…
Người con nào xuất thân từ những vùng nông thôn Việt Nam lam lũ, sau này đi xa sẽ nhớ vô cùng bóng dáng của những phiên chợ quê gắn liền với các bà, các mẹ. Đó như một miền kí ức khó quên mà ai cũng rưng rưng khi nhớ về.
Chợ quê Việt Nam hình thành rất đặc biệt. Ở nông thôn, thường mỗi xã hoặc một vài làng liền kề nhau có một cái chợ. Chợ là nơi trao đổi hàng hoá của cư dân địa phương. Chợ đặt ở làng nào, xã nào thường lấy tên của làng, xã ấy mà gọi. Nói nôm na đó là loại chợ quê. Quang cảnh chợ quê rất đơn giản, vài cái lều lợp gianh, lợp lá trên mấy cái cọc tre nhỏ, đơn giản. Có khi không có lều quán mà chỉ là một bãi đất trống. Người bán bày sản phẩm thành hàng, thành dãy hai bên lối đi. Chủng loại hàng hoá, đa phần là những sản vật địa phương do vậy mà thay đổi theo mùa, vụ.
Chợ quê cũng có sự “phân cấp” một cách tự nhiên thành chợ Làng, chợ xã, chợ huyện, chợ tình… Người ta gọi chợ theo cấp hành chính và quy mô chợ cũng từ đó mà to dần lên. Ngày nay chỉ còn dấu vết chợ quê ở làng, ở xã, còn chợ huyện, chợ tỉnh hầu như đã biến thành những trung tâm buôn bán lớn trong vùng. Do nhu cầu trao đổi, mua bán nên ngày nào cũng họp chợ. Vì vậy mà mất đi phiên chợ truyền thống ngày trước.
Chợ quê lại có hai loại, chợ phiên và chợ hôm. Chợ phiên họp vào những ngày theo một chu kỳ nhất định. Khi nói chợ họp ngày ba và ngày tám, có nghĩa là phiên chợ họp vào những ngày mồng ba, mồng tám, mười ba, mười tám, hai ba, hai tám hàng tháng (theo âm lịch). Gần đây nhiều chợ chọn ngày chủ nhật làm phiên họp chính. Phiên chợ chính bao giờ cũng đông người hơn phiên chợ xép (chợ họp không đúng phiên). Ngoài những sản phẩm địa phương, ở chợ phiên mặt hàng đa dạng hơn bởi sự góp mặt của các hàng công nghiệp đắt tiền.
Chợ hôm thì ngày nào cũng họp. Người mua người bán chỉ thưa thớt, trao đổi những hàng thiết yếu hàng ngày, hàng tươi sống như rau, hoa quả, dầu, muối, tôm cá, trứng… Chợ thường họp vào buổi sáng sớm hay chiều. Nếu chợ họp vào buổi chiều người ta hay gọi là chợ chiều.
Chợ quê đặc biệt hơn cả vào những dịp lễ tết. Khi ông mặt trời còn ngái ngủ sau lớp mây hồng phơn phớt, chợ đã khá đông rồi. Có lẽ ai cũng muốn nhanh chân lựa những món hàng còn mới. Từng tốp, từng tốp người quang gánh kĩu kịt, tíu tít đổ về chợ. Tiếng trò chuyện râm ran khiến cả khu chợ ồn ào, náo nhiệt khác với ngày thường. Ngay lối vào chợ là hàng bán lá dong. Lá dong được xếp thành từng đống lớn gọn ghẽ, xanh mươn mướt. Trẻ em đi theo mẹ để được sắm những bộ đồ đón tết. Ai cũng hồ hởi, nô nức sắm những thức ngon về dâng lên bàn thờ tổ tiên và đón năm mới.
Niềm vui ở chợ quê theo bước chân lon ton của các bé em đến tận nhà và theo cả niềm trông chờ của những đôi mắt hấp háy nô đùa ở ngoài sân đợi mẹ đi chợ về để được cái bánh, cây kẹo. Chợ quê mãi là miền hồi ức xinh đẹp của những người con lớn lên từ nông thôn. Cùng với cây đa, bến nước, sân đình, chợ quê mãi là một nét văn hóa đẹp đẽ của người Việt in đậm dấu ấn thôn dã bình yên.
Cập nhật thông tin chi tiết về Dàn Ý Thuyết Minh Về Một Trò Chơi Dân Gian (3 Mẫu) trên website Konu.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!